Nhìn lại những hình ảnh cuộc chiến biên giới Hoa Việt mới nhất
25.12.2007 09:17
Nhân vụ Trung Quốc sáp nhập Hoàng Sa và Trường Sa: Giàn vững tại cây Thường Trung | Thiền sư Nhất Hạnh viết: “Giấc mơ Việt Nam là các quốc gia lân cận, kể cả Trung Quốc biết thương mến và thưởng thức cái đẹp và cái dễ thương của đất nước, văn hóa và con người Việt Nam mà không còn có ý muốn xâm hại nhau, tại vì người Việt đã học được cách bảo vệ, sông núi, văn hóa và con người của mình bằng nếp chung sống hòa bình, bằng tình huynh đệ, bằng tài ngoại giao, bằng nếp sống tương trợ với các nước chung quanh”…
|
|
|
|
|
|
“Giấc mơ Việt Nam” vẫn chưa thành hiện thực thì Quốc vụ viện Trung Quốc vừa phê chuẩn việc thành lập thành phố Tam Sa nhằm quản lý các quần đảo trên biển Đông, trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Lịch sử cho thấy, mỗi khi đất nước có nạn xâm lăng, cũng là lúc tinh thần dân tộc của chúng ta có phần lỏng lẻo, niềm tin tâm linh của chúng ta hướng ngoại. Nhưng lịch sử cũng cho thấy sau khi Trung Quốc xâm lăng Việt Nam và tạo ra những tình huống đe dọa bằng vũ lực thì tinh thần đoàn kết của người Việt lại tăng lên gấp bội lần. Những mâu thuẫn, nghịch lý trong đối nội và đối ngoại ấy đã đòi hỏi phải có những điều chỉnh linh hoạt. Trước mắt, việc cần làm là phân tích hoàn cảnh thực tế của đất nước mình từ đó “rà soát” lại tinh thần dân tộc trong sự chuyển hướng như vũ bão vì mục đích phát triển kinh tế của đất nước và tham vọng làm giàu của người dân. Người Trung Quốc làm sao có thể “biết thương mến và thưởng thức cái đẹp và cái dễ thương của đất nước, văn hóa và con người Việt Nam mà không còn có ý muốn xâm hại” khi người Việt Nam vẫn chưa biết thương mến cái đẹp, thưởng thức văn hóa của đất nước mình mà gắng sức bảo vệ, giữ gìn. Có lẽ vì vậy mà thiền sư Nhất Hạnh đã phải xem đó là một “giấc mơ Việt Nam”. Tinh thần dân tộc không phải là cái trừu tượng, chung chung mà biểu hiện cụ thể qua ngôn ngữ, ăn mặc, ứng xử văn hóa của người dân. Thử hỏi chúng ta có bao nhiêu phần trăm tính dân tộc được biểu hiện qua những sinh hoạt ứng xử hàng ngày? Những người trẻ hiện đại sống trên mảnh đất này đang chuyển hướng đời sống để làm giàu bằng mọi cách. Và họ đang đẩy cái ý thức, tinh thần dân tộc lên vai một số người đại diện, thậm chí có thái độ thờ ơ, né tránh với những xung động chính trị. Trung Quốc đã “khôn ngoan” hơn khi chọn đúng thời điểm những phân mảnh đang còn giao thoa trong một hoàn cảnh nhập nhằng của những nghịch lý phát triển Việt Nam mà trắng trợn nhăm nhe từng phần lãnh thổ Việt Nam. Có thể nói họ đã đi trước chúng ta một bước trong phát triển kinh tế, và đang cơn háo danh, háo thắng, muốn chứng minh sức mạnh của mình với thế giới, Trung Quốc sẵn sàng đưa tinh thần bành trướng của mình thực nghiệm trên mảnh đất hình chữ S ( người láng giềng hữu nghị luôn mở ra trên miệng và cái bắt tay của họ). Cụ Phan Chu Trinh viết: “Xét lịch sử xưa, dân nào khôn ngoan biết lo tự cường tự lập, mua lấy sự ích lợi chung của mình, thì càng ngày càng bước tới con đường vui vẻ. Còn dân thì ngu dại, cứ ngồi yên mà nhờ trời, mà mong đợi trông cậy ở vua quan, giao phó tất cả quyền lợi của mình vào trong tay một người, hay một chính phủ muốn làm sao thì làm, mà mình không hành động, không bàn luận, không kiểm xét, thì dân ấy phải khốn khổ mọi đường….”. Cái khốn khổ mọi đường của cụ Phan Chu Trinh nêu ra có lẽ cũng không nằm ngoài cái khốn khổ vì phải vong thân ngay trên mảnh đất thân thương của mình. |
Sông liền sông núi liền núi, người TQ đã lợi dụng tình xóm giềng xâm lăng và đô hộ nước Việt Nam trên 10 thế kỷ gây nên nợ máu truyền kiếp | Tô Mai Hồng (Xu Meihong)
Một trong những điều làm cho binh sĩ của chúng ta bực tức nhất là nữ du kích Việt Nam. Trong khi tiến phía nam, chỗ nào đã đi qua rồi là chúng ta coi như vùng đó là nơi an toàn, nhưng sự thật thì không phải như thế vì trên nội địa Việt Nam không có nơi nào có thể gọi là nơi an toàn đối với chúng tôi cả.
Một đoàn xe tăng T59 đi hàng một trên một con đường núi nhỏ hẹp. Gặp khúc quanh ngặt, xe dẫn đầu phải chạy rất chậm mới có thể quẹo được; nhưng trong khi rẽ thì lổ châu mai dùng để nhắm vẫn đứng yên bất động, không quay theo hướng của chiếc xe. Và chính lúc đó là lúc mà tên du kích dùng súng của bắn vào lổ châu mai và giết chết người lái xe. Lái xe của 7 chiếc xe tăng đều bị giết chết khi họ muốn quẹo xe và cả đoàn cơ giới đành phải dừng lại vì không có bộ binh đi theo hộ tống, và ai cũng tưởng đã gặp phải sức chống cự của một lực lượng hùng hậu của địch. Rồi mọi xe tăng đều bắt đầu xạ kích lung tung vì không thấy mục tiêu.
Khi dứt tiếng súng thì cảnh vật lại trở về im lặng với cây rừng. Sau đó một chốc, một đại đội bộ binh được điều đến để lục soát trong vùng. Cuối cùng họ bắt được một nữ du kích Việt Nam với một khẩu súng. Viên chỉ huy đoàn xe giận quá bèn cho lột trần cô ta, trói cả tay chân rồi ném ra giữa đường. Ông ta nhảy lên một chiếc xe và lái xe này chạy qua chạy lại nhiều lần qua cô gái cho đến khi chỉ còn một mớ thịt bầy nhầy trải trên mặt đường núi. Trong khi đó binh sĩ của ông ta lên tiếng cổ vũ rầm rĩ vang cả khu rừng.
Quân VN hy sinh
Du kích Việt Nam rule!
Trung Quốc tiến vào Việt Nam
Trung Quốc quỳ gối dưới Việt Nam
Vi Xuyen- Ha Giang 1984
Trung Quốc ở Lào Sản
Quân VN trở về sau cuộc chiến
owned!
Hà Giang 1984
Trên Biên Giới những năm 1984
1 nhóm Trung Quốc tấn công vào hang động, chúng ta đã sử dụng lựu đạn và RPG-7 để tiêu diệt chúng.
Chiến sĩ đi tuần trên biên giới
Quân Trung Quốc áp giải du kích VN
Tàu thương vong vô số
Quân Trung hành quân
T62 tank - 1979
Trung Quốc tiến vào thị xã VN
Bắt sống gián điệp Trung Quốc những năm 1984
Ai bắn quá này phải tuyên dương anh hùng! Nice shot!
Với bản chất man rợ, quân đội Trung Quốc tập trung dân làng lại xong đặt mìn cho nổ tan xác hàng ngan dân vô tội, san bằng
Lạng Sơn 1979
Tô Mai Hồng (Xu Meihong)
Trong cuộc chiến tranh "trừng phạt " này, chúng ta đã áp dụng chính sách tiêu thổ đối với Việt Nam. Ngay trong vùng Lạng Sơn có mỏ "lân tinh", chúng ta đã cho công binh tháo gỡ toàn bộ máy móc và dụng cụ dùng để khai thác hầm mỏ này mang về Trung Quốc. Những gì không mang đi được như đường sá, nhà cửa, các con đường hầm, đều bị phá sạch.
Cao điểm 116 sau hơn 8000 quả đạn của quân ta "giã" vào chúng.
Hà Tuyên 1984
Biên Giới 1979
Người TQ đã phải trả quá nhiều máu trên lãnh thổ VN!
Hải chiến Hoàng Sa
Chủ trương của Cộng Sản Bắc Việt là sau khi thôn tính miền Nam đã muốn che dấu những sự thật về lịch sử. Chế độ VNCH bị chôn vùi và xuyên tạc, hình ảnh người lính VNCH bị bôi đen, được xem như một lực lượng phản dân hại nước. Sách vở, tài liệu phần lớn là ngụy tạo, xuyên tạc viết theo đường lối có lợi cho đảng cầm quyền, và giới thức giả vì cuộc sống cơm áo, trói buộc bởi chế độ “tem phiếu” đã cho ra đời những tác phẩm ngang tầm với những tờ truyền đơn quảng cáo cho chế độ. Ngay trong những cuốn tự điển, đáng lẽ phải vô tư vì chữ nghĩa cũng thấy nhan nhản những ví dụ, những trích dẫn tuyên truyền rẻ mạt. Giới trẻ lớn lên, nhất là sau năm 1975, với những loại sách vở, nhìn đâu cũng thấy đảng anh hùng, một mặt chỉ lo chạy theo cuộc sống vật chất. Nhưng ngày nay, Internet đã đưa thông tin vào mọi gia đình, và dần dà tuổi trẻ Việt Nam đã nhìn thấy sự thật, những sự thật đã thức tỉnh con người, và chắc chắn nhà cầm quyền cộng sản đã hết sức lo sợ khi chúng can thiệp vào các blog cá nhân, phá tán các trang nhà bất lợi cho chế độ. Việc Trung Quốc trong những ngày mới đây đã có một văn bản hành chánh để thiết lập các quần giảo Trường Sa và Hoàng Sa thành một quận huyện Tam Sa, trực thuộc tỉnh Hải Nam đã làm cho tuổi trẻ và đồng bào trong nước phẫn nộ, xuống đường biểu tình đả đảo Trung Quốc “xâm lăng”, và lẽ cố nhiên cũng hàm ý đả đảo nhà nước cộng sản bất lực không bảo vệ được những phần đất của tổ quốc. Chính Thủ Tướng Phạm Văn Ðồng từ năm 1955, sau khi đất nước bị chia cắt theo Hiệp Ðịnh Genevè, từ vĩ tuyến 17 trở vào phía Nam, trong đó có hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thuộc về VNCH, đã vì quyền lợi anh em XHCN, đã tán thành tuyên bố chính thức của Trung Quốc về hải phận, bao gồm 12 hải lý, trong đó có có các đảo Ðông Sa, Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa... Ðến năm 1992, Bộ Trưởng Ngoại Giao CSVN Nguyễn Mạnh Cầm đã giải thích một cách gượng gạo như sau: “Thêm vào đó, vào lúc ấy Việt Nam phải tập trung hết mọi lực lượng vào cuộc chiến chống Mỹ nên cần bạn bè khắp nơi. Tình hữu nghị Việt Trung đang thắm thiết và hai nước hoàn toàn tin cậy lẫn nhau. Việt Nam xem Trung Quốc là một nguồn hỗ trợ to lớn và giá trị. Trong tinh thần ấy, thì do tình thế cấp bách, quan điểm cảu lãnh đạo ta (tức ủng hộ Trung Quốc công bố chủ quyền của họ trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa) là cần thiết vì nó phục vụ cho cuộc chiến bảo vệ tổ quốc.” Ngày nay vì “há miệng mắc quai”, chính quyền cộng sản rất khó giải thích với quần chúng về những sự thật của Hoàng Sa và Trường Sa. Những cuộc biểu tình tự phát của tuổi trẻ Saigon-Hà Nội đã bị công an cấm đả đảo Trung Quốc, cấm đụng chạm đến chính phủ Việt Nam Cộng Sản, mà chỉ có thể hô hào “Trường Sa và Hoàng Sa là máu thịt của Việt Nam” thì những cuộc biểu tình trở thành vô hại cho tình hữu nghị “môi hở răng lạnh” Việt Trung. Một số sinh viên biểu tình đã bị bắt và bị hù dọa. Tuổi trẻ Việt Nam đã biết đến trận chiến Hoàng Sa ngày 19 Tháng Giêng 1974 mà Hải Quân VNCH đã dũng cảm chống với Trung Quốc. Lực lượng phía bên Trung Cộng đông hơn và được trang bị vũ khí tối tân hơn nhưng bị thiệt hại rất nặng so với bên VNCH. Tổn thất phía bên Trung Cộng: Theo bài viết “Tổng Kết Hải Chiến Hoàng Sa” của Bác Sĩ Trần Ðại Sĩ thì phía Trung Cộng tử trận gồm: 4 đại tá, 6 trung tá, 2 thiếu tá và 7 sĩ quan cấp úy. Cả bốn tên hạm trưởng cấp bậc từ trung tá đến đại tá đều tử trận. - Hộ tống hạm 274 bị chìm. - Hộ tống hạm 271 và hai trục lôi hạm 389, 396 bị hư hại nặng phải ủi vào bãi, sau đó phải phá hủy. Tổn thất phía Việt Nam Cộng Hòa: - Hộ tống hạm Nhật Tảo bị chìm. Hạm trưởng, HQ Trung Tá Ngụy Văn Thà và HQ Thiếu Tá Nguyễn Thành Trí tử trận cùng với khoảng 50 thủy thủ và chiến sĩ biệt hải hy sinh. Giờ đây đồng bào, nhất là tuổi trẻ trong nước lâu nay bị bưng bít đã biết ai bán nước, ai bảo vệ đất nước. Những cuộc biểu tình này nhắm vào Trung Quốc hay nhắm vào chính quyền CSVN hiện nay? Chắc chắn rồi đây, những cuộc biểu tình sẽ bị đàn áp, dẹp bỏ nhưng sự thật đã được phơi bày. Hình ảnh người chiến sĩ lính hải quân VNCH đã xả thân cho chủ quyền tổ quốc sẽ là tấm gương sáng cho tuổi trẻ Việt Nam hiện nay, dù ở trong nước hay ở hải ngoại. (Huy Phương, Người Việt) http://tntdcndvn-online.blogspot.com/2007/12/ti-liu-v-trn-hi-chin-hong-sa-nm-1974.html http://www.freespeechforvn.com/lichsuHS.htm
Mùa Xuân Đại thắng quân Thanh, Quang Trung và nghệ thuật dụng binh thần tốc, táo bạo
Miền Bắc tiếp giáp TQ nên thường bị xâm chiếm, trong lịch sử mỗi khi bị xâm lăng thì chính những thanh niên miền Trung đứng lên làm sứ mạng giaỉ phóng đồng bào miền Bắc dành lại chủ quyền và độc lậpKhông ngạo nghễ như Caesar - một vị hoàng đế La Mã cổ đại - nhưng Quang Trung hoàng đế có một niềm tin mạnh mẽ vào chiến thắng cuối cùng mà đội quân của ông có thể giành được trước kẻ thù. Đó là những chiến thắng được xây dựng từ nghệ thuật dụng binh thần tốc, táo bạo và nắm chắc thời cơ. Thế kỷ 16, Đại Việt chìm trong chia cắt: hết cuộc chiến giữa tập đoàn phong kiến Trịnh-Mạc cho đến cuộc đối đầu triền miên giữa dòng họ Trịnh-Nguyễn. Cuối thế kỷ, cục diện đàng trong đàng ngoài chính thức hình thành và kéo dài mãi từ đó đến gần hai thế kỷ sau.
Đất nước lâm nguy, vua chúa cả hai miền chỉ lo vơ vét của cải, ăn chơi hưởng lạc, khiến nhân dân lầm than. Trong bối cảnh ấy, không ít cuộc khởi nghĩa đã nổ ra. Tuy nhiên, chưa cuộc khởi nghĩa nào thắng lợi. Năm 1771, trên vùng Tây Sơn Thượng Đạo (An Khê, Gia Lai ngày nay), 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ phất cờ khởi nghĩa. Được nhân dân ủng hộ, trong vòng 12 năm, từ 1777-1789, nghĩa quân Tây Sơn liên tiếp lập nên những chiến công hiển hách: lật đổ 2 tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn; đánh tan 5 vạn quân Xiêm và đè bẹp 29 vạn quân Thanh Xâm lược. Trong suốt chặng đường chiến đấu, Nguyễn Huệ đã không chỉ chứng tỏ mình là nhà lãnh đạo chính trị xuất sắc mà còn là một nhà cầm quân tài ba. Những gì ông làm, không phải vị tướng nào cũng thực hiện được. Táo bạo - Đòn phủ đầu không ngờ Một trong những điểm nổi bật trong cách dụng binh của Nguyễn Huệ là sự kết hợp giữa tài chỉ huy quân sự và tính cách cá nhân: táo bạo, thần tốc và vô cùng tự tin. Trong cuộc phản kích tiêu diệt quân Xiêm (1785), thay vì chọn khúc sông Mỹ Tho có địa hình thuận lợi cho việc phục kích như đoạn từ Cái Bè đến Bình Chánh Đông, ông lại chọn khúc Rạch Gầm - Xoài Mút - một khúc sông rộng và địa hình trắc trở hơn để đặt phục binh. Còn trong cuộc tiến công từ Phú Xuân ra Thăng Long tiêu diệt 29 vạn quân Thanh (1789), Nguyễn Huệ - khi đó đã là vua Quang Trung - chọn cách tấn công vào Thăng Long từ phía Nam. Đó là khu vực quân Thanh bố phòng cực kỳ kỹ lưỡng. Nhưng đó cũng là hướng quân Thanh chủ quan nhất, vì chúng đinh ninh rằng mình ít có khả năng bị tấn công, thế nên ông đã quyết định ra đòn phủ đầu. Đợt phản kích quân Thanh theo hướng này diễn ra rất chóng vánh: chỉ trong vòng 6 ngày, kể từ khi xuất binh (Đêm 30 tết) đến khi tiêu diệt hoàn toàn quân Thanh trong trận Đống Đa (ngày mồng 5 tết). Biến thần tốc thành sức mạnh Nhưng sự táo bạo chỉ phát huy được sức mạnh của nó nếu cuộc tấn công được triển khai nhanh chóng, thần tốc và bất ngờ. 4 năm sau trận chiến một ngày ở Rạch Gầm - Xoài Mút, đội quân của Nguyễn Huệ lại làm nên một điển hình mẫu mực trong lần truy diệt 29 vạn quân Thanh năm 1789. Nếu không tính đến cuộc hành quân nhanh kỳ lạ và đến giờ vẫn còn gây nhiều tranh cãi của đội quân Tây Sơn từ Phú Xuân ra Bắc, thì chỉ nguyên cuộc phản kích quân Thanh trong vòng 6 ngày Tết Kỷ Dậu 1789 cũng đã là một bài học tuyệt vời trong kho tàng nghệ thuật quân sự. Đêm 30 tết, quân Tây Sơn bí mật vượt sông Gián Khẩu, tiêu diệt gọn địch ở đồn tiền tiêu và cả nhóm quân do thám. Đêm mồng 3 tết, quân của ông bí mật vây đồn Hà Hồi (Thường Tín, Hà Tây). Quân giặc bất ngờ, hoảng sợ hạ khí giới đầu hàng. Mờ sáng 5 tết, trong khi cánh quân Tây Sơn do đích thân Quang Trung chỉ huy bắt đầu tấn công đồn Ngọc Hồi (Thanh Trì, Hà Nội) thì một cánh quân Tây Sơn khác nhắm thẳng vào đồn Đống Đa (Hà Nội). Cùng lúc với hai chiến thắng đó là hàng loạt chiến thắng khác: chiến thắng Đại Áng, chiến thắng Đầm Mực, chiến thắng Nhân Mục, chiến thắng Hạ Yên Quyết. Các cuộc tấn công trên đều diễn ra một cách nhanh chóng và dồn dập đến độ quân Thanh không kịp trở tay. Chúng không còn có thời gian để thông báo, hỗ trợ hay ứng cứu nhau. Cách đánh bất ngờ, thần tốc này luôn là tâm điểm trong binh pháp của ông. Đó là cách để bù đắp sự chênh lệch trước những đội quân đông hơn mình gấp nhiều lần. Hơn thế nữa, không chỉ là người "nhạy cảm" với thời cơ, ông còn biết cách tạo ra thời cơ để tận dụng tối đa thế mạnh của mình. Nắm chắc thời cơ Cuối năm 1788, quân Thanh đưa quân vào nước ta dưới danh nghĩa giúp nhà Lê dẹp loạn. Với sự bảo trợ của vua Lê Chiêu Thống, cánh quân Thanh được nhiều nhân sĩ trung thành với nhà Lê ủng hộ, nhân dân Thăng Long chưa biết nên theo ai: Tây Sơn hay vua Lê. Tình thế hoàn toàn bất lợi cho quân Tây Sơn. Nhận được tin Lê Chiêu Thống "mời giặc vào nhà", Nguyễn Huệ nhanh chóng làm lễ, lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung. Ngay sau đó, ông tập hợp quân đội, Bắc tiến, diệt quân Thanh. Tất cả những chuyện lên ngôi hoàng đế, triệu tập quân đội, rồi xuất binh chỉ diễn ra trong vòng... 1 ngày. Với một vị tướng nhiều kinh nghiệm trận mạc, hoàng đế Quang Trung đã nhìn thấy: đây là thời cơ tốt để chinh phục lòng dân và tiêu diệt địch. Sau này, trên đường ra bắc, ông đã dừng lại ở Nghệ An để lấy thêm quân và tham khảo ý kiến La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp về thời cơ và cách đánh quân Thanh. Câu trả lời của Nguyễn Thiếp khiến Nguyễn Huệ rất ưng ý. Nguyễn Thiếp nói: "Quân Thanh đến từ xa không biết tình hình quân ta mạnh hay yếu thế nào, không biết thế nên chiến hay nên thù thế nào. Vả nó có bụng khinh địch, nếu đánh gấp không quá 10 ngày sẽ phá tan; nếu trì hoãn một chút thì khó lòng được nó". Hơn thế nữa, quân Thanh sẽ sớm lộ rõ âm mưu xâm lược. Đó là lúc đội quân Tây Sơn sẽ có được sự ủng hộ và giúp sức của nhân dân. Về phía giặc, sau khi vào Thăng Long dễ dàng, quân Tây Sơn thì đã rút mãi về tận Tam Điệp (Ninh Bình) - Biện Sơn (Thanh Hóa), lại thêm được nhiều quan quân nhà Lê ủng hộ, càng gần Tết, quân Thanh càng khinh đối thủ. Tất cả những điều đó góp phần khẳng định: đó là thời cơ tốt nhất để tận diệt quân Thanh. Cùng với việc củng cố quân đội, đốc thúc việc hành quân nhanh chóng, ông còn lưu tâm đến việc làm kiêu binh địch, khiến địch ngày càng chủ quan, tự mãn. Sự thất bại của quân thù chỉ còn là vấn đề thời gian. Anh hùng nước Nam Lúc tuyển thêm binh ở Nghệ An, Nguyễn Huệ đã đưa lời dụ tướng sĩ: "Đánh cho để dài tóc Đánh cho để đen răng Đánh cho nó chính luân bất phản Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng tri hữu chủ" Ông hối thúc ba quân hãy đánh sao cho quân thù không còn mảnh giáp, đánh sao cho chúng không còn đường về, đánh sao cho chúng nhận ra rằng nước Nam là có chủ. Và đội quân "cốt tinh, không cốt đông" của ông tiến vào Thăng Long đúng với khí thế ấy. Hoàng Lê nhất thống chí miêu tả sự thất bại của quân Thanh: "Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết ..., thây ngổn ngang đầy đồng, máu chảy thành suối. Quân Thanh đại bại". Những mũi tấn công sắc sảo của quân Tây Sơn luôn giáng cho quân địch những đòn chí mạng. Bởi thế, chỉ một trận Rạch Gầm - Xoài Mút mà quân Xiêm sau này "sợ quân Tây Sơn như sợ cọp". Còn nhà Thanh cũng tắt luôn âm mưu xâm lược nước Nam từ trận đại bại đó. (Theo VNN)
| THÁNG CHẠP 2007 LẠI NHỚ THÁNG CHẠP 1785, VUA QUANG TRUNG ÐẠI PHÁ QUÂN XIÊM TẠI RẠCH GẦM (ÐỊNH TƯỜNG) MƯỜNG GIANG
Xưa nay, bất cứ quốc gia nào cũng đều có những trang lịch sử đẫm máu và nước mắt. Từ đó mới có những anh hùng-liệt nữ, cũng như bọn phản tặc bán nước hại dân, các đấng minh quân hay lũ bạo chúa. Lịch sử là vậy, nên dù được viết bằng văn tự rõ ràng hay loan truyền qua bia miệng, miên viễn người đời ai cũng thích tôn kính các bậc anh hùng vì dân vì nước, dù họ có phạm lỗi lầm như Lê Hoàn, Lý Công Uẩn, Trần Thủ Ðộ, Hồ Quý Ly, Lê Lợi...
Cận sử VN có Vua Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh), có công rất lớn đối với dân tộc, vì đã thống nhất được đất nước, từ Ải Nam Quan cho tới Mũi Cà Mâu, sau hơn 300 năm nội chiến giữa Trịnh-Nguyễn và nhà Tây Sơn. Ông cũng đã ổn định được một vùng đất mới, do các chúa Nguyễn tại Nam Hà, đã khái phá được, từ Thuận Trấn (Bình Thuận) vào tới Hà Tiên (Thủy Chân Lạp), biến chốn hoang vu ma thiêng nước độc, bị người Chàm và Khmer bỏ hoang hằng bao thế kỷ, thành nơi thị tứ phồn hoa, ruông vườn xanh mơ bát ngát, mà ngày nay con cháu thênh thang ấm no mừng hưởng.
Nhưng đã nói lịch sử vốn vô tình, công thì sùng kính ca ngơi nhưng nếu có tội vẫn bị chữ nghĩa phanh thây trên trang giấy. Nên đồng thời nhà vua cũng bị các sử gia nặng bút phê phán về nhiều tội như "Vong Ân Bội Nghĩa", khi chính tay giết những công thần đã giúp mình gồm Ðổ Thành Nhơn, Nguyễn Văn Thành, Ðặng Trần Thường... Vua cũng là người nhỏ nhen khi ra lệnh đào mồ Quang Trung, phân thây Bùi Thị Xuân và trên hết vì muốn chiếm lại đế nghiệp, đã phải nhờ nước ngoài giúp mình, gây nên cảnh nồi da xáo thịt. Ngoài ra vua cũng như nhà Nguyễn đã quá ngu muội, đần độn, khi vẫn tiếp tục coi Nho là quốc giáo, để an bang tế thế, trong lúc đã nhìn thấy rõ, là Thanh Triều, cũng vì chính trị thối nát, nên nước Tàu, cũng đang bệ rạc, đâu có điều gì hay, để cho VN phải bắt chước?
Ngày nay qua những khai quật của lịch sử, việc quân Xiêm vào xâm lăng đất đai Nam Kỳ, nói là do Nguyễn Ánh cầu viện, vẫn đang là một nghi vấn. Nhưng sử viết vua Gia Long là người cực đoan, có tình yêu nước nồng nàn, qua hành động không bao giờ chịu cắt một ly đất đai của nước ta, nhường cho ngoại quốc, kể cả sứ bộ Bá Ða Lộc, từng vào sinh ra tử với Chúa, lúc còn tẩu quốc, đó là sự thật.
Qua sử liệu, ai cũng biết xưa nay, trên bán đảo Ðông Dương, Ðại Việt và Xiêm La là hai con cọp, lúc nào cũng muốn tranh giành ảnh hưởng chính trị với hai nước yếu nằm giữa là Chân Lạp và Ai Lao, nên trong quá khứ đã có nhiều đụng chạm giữa hai nước và lần nào người Xiêm cũng bị bại trước sự dũng mãnh phi thường của nước Việt.
Tuy nhiên người Xiêm đã thật sự sợ dân Việt hơn cọp, sau khi bị vua Quang Trung (Nguyễn Huệ), tiêu diệt hơn 2 vạn quân, đồng thời đốt rụi 300 tháp thuyền, tại Vàm Rạch Gầm-Xoài Mút, tỉnh Ðịnh Tường, vào những ngày sắp Tết năm 1785. Vì vậy từ đó tới nay, Thái Lan thâm thù người Việt đến tận xương tủy, nên hằng tìm đủ mọi cách để trả thù. Thảm kịch của đồng bào tị nạn Nam VN trên biển Ðông, do hải tặc Thái Lan gây ra, được chính quyền nước này làm ngơ hay chỉ ngó tới một cách lơ là chiếu lệ, đã nói lên rõ ràng sự trả thù của vua chúa nước này đối với VN, qua những hận nhục bại trận quá khứ. Ðây cũng là một hệ lụy tất yếu của dân tộc hùng anh dũng liệt Ðại Việt, nhưng luôn bất hạnh vì thiếu vắng những bậc cầm quyền tài trí đảm lược, nhất là trong thời cận sử cho tới ngày nay, khiến cho nước ta luôn bị lệ thuộc ngaọi bang, không biết tới bao giờ mới ngoi lên khỏi vũng bùn nô lệ.
"tiếng ai than khóc sầu thương Nhị Hà nước xuống trùng dương xa mờ Chương Dương, Hàm Tử ngàn xưa Giờ sao sông núi, bụi Hồ vấn vương... "
1- NƯỚC XIÊM LA:
Xiêm La hay Thái Lan ngày nay có diện tích 198.455 sq.ml hay 512.998 km2, dân số tính tới năm 2004 là 55.448.000 người, thủ đô là Bangkok (Vọng Các) chưa kể ngoại ô có 1.867.297 người. 95% người Thái theo Phât giáo tiểu thừa.
Thật ra Xiêm không phải là quốc hiệu của người Thái. Ðó là cái tên mà người Cao Mên và Chiêm Thành dùng để gọi họ. Ngay từ thế kỷ thứ XI, danh từ SYAM đã thấy xuất hiện trên các văn bía của người Chàm tại Trung phần VN, còn hình ảnh của người Syam, thì đầy rẩy nơi các di tích của người Khmer, tại đền Angkor được dựng lên từ thế kỷ thứ XII sau TL.
Người VN theo cách gọi của Miên và Chàm, cũng gọi là Xiêm. Riêng người Tàu qua lối phát âm Bắc Kinh, đọc là Tiêm, rồi ghép với tên của nước La Hộc, tức là vùng Lyo ngày nay, thuộc Lopburi ở hạ lưu sông Mê Nam, thành nước Tiêm-La. Còn người Pháp cũng dựa vào lối phiên âm Tàu mà đọc là Siam, trong lúc người Anh thì nói trại là Saiam. Trong bộ Bách Khoa Từ Ðiển của Ý Ðại Lợi (Enciclopedia Italiana), đã giải thích rằng Anh và Pháp khi dùng tiếng Siam để chỉ người Thái, là căn cứ vào tiếng Saiam Sayang của người Miến Ðiện dùng để chỉ người Xiêm, rồi đọc trại ra là Siam hay Saiam.
Nhưng căn cứ vào sử liệu, ta thấy từ ngày lập quốc đến nay, người Thái gọi mình là Thay, còn người Shan là Nghiện. Riêng danh từ Siam chỉ mới xuất hiện gần đây. Do trên thời xưa, nước Thái Lan được gọi là Mường Thay hay Prathet Thay. Ðời vua Rama IV (1851-1868), quốc hiệu mới được đổi là Sayam (Xiêm), để đánh dấu nước này canh tân theo văn minh tây phương. Năm 1939, tướng Phibul Songgram lên làm thủ tướng, mới đổi quốc hiệu từ Xiêm sang Thái. Từ 1945-1948, tên nước trở lại là Xiêm và sau đó tới ngày nay, chính thức là Thái. Với người Anh, họ phiên âm Thay thành Thai, còn Prathet là Land, nên sau này gọi nước Xiêm là Thailand. Theo cách đó, người Pháp viết là Thailande, còn VN thì đọc là Thái Lan.
2 - NHỮNG GÂY CẤN GIỮA ÐẠI VIỆT VÀ THÁI LAN:
Từ đầu thế kỷ thứ XVII, người Việt đã tới khai hoang tại vùng Ðồng-Nai và Mỏi-Xùy (nay là Biên-Hoà và Bà Rịa) của Chân Lạp. Vì muốn thoát khỏi ảnh hưởng và sự kềm kẹp của Xiêm La đã có từ trước đến nay, nên quốc vương nước này là Chey Chetia II sang cầu thân với Chúa Nguyễn Nam Hà, để nhờ che chở. Nhân dịp đó, Chúa Hy Tôn-Nguyễn Phúc Nguyên đã vì dân nước, nên đành đem con gái cưng của mình là Ngọc Vạn, gã cho vua này làm Hoàng Hậu vào năm 1620, để lấy chỗ dựa cho dân Ðại Việt tới làm ăn tại Chân Lạp. Chúa còn đem người con gái kế là Ngọc Khoa, gã cho vua Chàm để mượn đường bộ từ Phú Yên vào Ðồng Nai, vì lúc đó nước Chiêm Thành vẫn còn. Do trên Xiêm La đả kết thù với Ðại Việt, vì cả hai đều muốn giành giựt ảnh hưởng tới Lào và Miên, vốn là hai nước nằm giữa rất yếu kém, do nội loạn thường trực.
Năm 1672, Chey Croetha III làm loạn, giết cha vợ là vua Batom Reachea và dắt quân Xiêm từ Nam Vang xuống Sài Côn, chiếm lại tất cả thành trì, đồng thời đuổi giết người Việt đang khẩn đất làm ăn tại Ðồng-Nai, Mõ Xùy. Năm 1674 Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần sai binh tướng sang Thủy Chân Lạp, đánh đuổi quân Xiêm chạy về biên giới Miên-Thái, giết vua Nặc Ông Ðài. Sau đó lập Năc Thu làm vua Lục Chân Lạp, đóng tại Nam Vang và Năc Nộn là phó vương miền Thủy Chân Lạp, tại Sài Gòn. Từ đó người Miên thần phục Chúa Nguyễn.
Năm 1687, quân Xiêm lại vào cướp phá đất Hà Tiên, bắt Mạc Cửu đem về giam lỏng tại Muang Garaburi nhưng sau đó, ông đã trốn được về nước vào năm 1700. Từ đó Mạc Cửu đem đất đai Hà Tiên và binh sĩ dưới quyền, xin thần phục Nam Hà, nên được Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu phong chức tổng binh.
Năm 1717, quân Xiêm tấn công Hà Tiên, Mạc Cửu binh ít chống cự không nổi, nên phải bỏ thành lui về giữ Long Kỳ. Quân Xiêm vào tàn phá Hà Tiên thành bình địa nhưng sau đó chiến thuyền bị bão đánh đắm trong vịnh Phú Quốc, nên phải rút về nước. Mạc Cửu trở về kiến tạo lại Hà Tiên và đắp thành ngăn giặc vào năm 1718.
Năm 1769, vua Xiêm là Trịnh Quốc Anh đem quân thủy bộ tấn công Hà Tiên, lại đặt đại bác trên núi Tô Châu bắn vào thành sát hại nhiều dân chúng vô tội. Tổng binh Mạc Thiên Tứ vì binh ít và không có tiếp viện, nên phải bỏ thành, cùng các con Mạc Tử Hoàng, Tử Thương, Tử Duyên... lui về Trấn Giang (Cần Thơ). Nhưng quân Xiêm đã bị các tướng lãnh trấn thủ Long-Hồ và Ðông Khấu là Tống Phước Hợp và Nguyễn Hữu Nhân, đánh đuổi phải bỏ Hà Tiên, chạy về cố thủ thành Nam Vang.
Năm 1772, Duệ Vương Nguyễn Phúc Thuần sai chưởng cơ Nguyễn Cửu Ðàm, thống suất hai đạo Bình Khánh và Bình Thuận, gồm 10.000 quân thủy bộ và 30 chiến thuyền. Quân Nguyễn chiếm lại Hà Tiên và Chân Lạp, rồi đưa Nặc Tôn về Nam Vang làm vua trở lại. Từ đó quân Nguyễn đóng luôn ở Nam Vang, bảo hộ và làm cố vấn cho quốc vương Chân Lạp.
Năm 1780, vì tàu buôn bị cướp ở Hà Tiên, vua Xiêm nghe theo lời xúi của quan Chân Lạp tên Bồ Công Giao, bắt cha con Mạc Thiên Tứ, Tử Hoàng, Tử Thương, Tử Duyên cùng sứ thần của chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Xuân... đem xử trảm. Mạc Thiên Tứ lúc đó trên 70 tuổi, uất ức tự tử chết. Riêng gia quyến của họ đều bị đày lên tận biên giới Miến-Thái.
Năm 1782, vua Xiêm là Trịnh Quốc Anh bị hai tướng Chất Trí và Sô Sĩ giết chết. Chất Trí lên làm vua Xiêm, xưng Phật Vương (Rama 1), tha những người Việt bị đầy, đồng thời giao hảo với chúa Nguyễn Ánh lúc đó đang bị quân Tây Sơn đuổi giết tận tuyệt
Năm 1784, mượn cớ sang giúp Nguyễn Ánh, vua Rama 1, sai 2 vạn thủy quân và 300 tháp thuyèn, do hai người cháu là Chiêu Sương, Chiêu Tăng sang xâm lăng Nam Phần. Quân Xiêm chiếm các đạo Kiên Giang, Trấn Giang, Ba Thắc, Trà Ôn, Sa Ðéc... đồng thời cướp của giết người, không ai có thể ngăn cản nổi. Sự kiện trên làm cho Nguyễn Ánh cũng phẫn uất nhưng phải bó tay ví không còn binh lực để kềm chế giặc.
Cuối tháng chạp cùng năm, được tin quân Xiêm đã tới Ðịnh Tường, nên Long Nhưỡng tướng quân là Nguyễn Huệ, từ Qui Nhơn đem quân thủy bộ vào chận đánh, phá tan 2 vạn quân Xiêm tại vàm Rạch Gầm-Xoài Mút. Từ đó người Xiêm sợ Ðại Việt như sợ cọp.
Năm 1817, sau khi chiếm được Stung Treng và Vạn Tượng của Lào. Quân Xiêm tràn sang chiếm một phần cao nguyên Trung Phần, lúc đó gần như chưa có chính quyền VN hiện diện. Bọn quan lại Xiêm cai trị đồng bào thiểu số tại đấy rất tàn ác dã man. Tình trạng kéo dài tới thời Pháp thuộc mới chấm dứt.
3-NGUYỄN HUỆ TIÊU DIỆT QUÂN XIÊM TẠI ÐỊNH TƯỜNG:
+ Ðịa Danh Rạch Gầm, Xoài Mút (Mỹ Tho):
Ðất Ðịnh Tường thuộc dinh Phiên Trấn, được Túc Tông Nguyễn Phúc Trú thành lập vào năm 1731. Vào năm 1772 Duệ Tông Nguyễn Phúc Thuần đổi là Ðạo Trường Ðồn, rồi thành Huyện Kiến An vào năm Gia Long nguyên niên 1801.
Năm 1802 lại cải thành Dinh Trấn Ðịnh, phiên trấn Ðịnh Tường. Ðời vua Minh Mang (1820-1840), chính thức chia đất Nam Kỳ, thành sáu tỉnh trong đó có tỉnh Ðịnh Tường. Danh xưng này tồn tại tới ngày 30-4-1975 thì mất
Riêng hai địa danh "RẠCH GẦM-XOÀI MÚT’ nằm trong tỉnh Ðịnh Tường. Theo các tài liệu cổ có từ thời nhà Nguyễn, thì Rạch Gầm ngày xưa được gọi là Sầm Giang. Ðó là một con rạch dài chừng 15km, phát nguồn từ xã Long Tiên (Cai Lậy), chảy qua các thôn xóm trù phú thuộc các xã Kim Sơn, Vĩnh Kim, Mỹ Luông, Thuộc Phiên.rồi đổ vào sông Mỹ Tho (Tiền Giang) tại Kim Sơn. Khi người Việt từ miệt ngoài, theo chân các Chúa Nguyễn vào đây khẩn hoang lập ấp, thì vùng này toàn là rừng rậm cây cao, đầy các loại dã thú như voi, cọp, trăn-rắn, heo rừng, cá sấu. Nói chung chỗ nào đêm ngày cũng có tiếng cọp gầm voi rống, làm cho ai cũng kinh hồn, sởn óc, nhiều người vô phước bị cọp vồ, cá sấu táp khi phá rừng làm ruộng. Do trên, tổ tiên ta mới đặt tên vùng này là "Rạch Cọp Gầm’. Về sau để dễ nhớ, nên kêu là Rạch Gầm tới ngày nay không đổi. Ở đây cây cối sầm uất, hai bên bờ rạch đầy dừa nước và nhiều cây bần mọc gie ra khỏi con rạch. Ðúng là một vị trí chiến lược lý tưởng, để các nhà quân sự tài danh, áp dụng lối đánh du kích, phản kích và nhất là hỏa công trận.
Vàm Rạch Gầm có bề ngang chừng 100m, thuộc xã Kim Sơn. Trên bờ có chợ nhỏ, bán đầy các loại thổ sản miệt vườn như cam, quít, ổi, chuối... Nhưng chợ Rạch Gầm nổi tiếng xưa nay vẫn là Vú Sửa, món đặc sản bản địa, ngon-ngọt hơn bất cứ nơi nào khác. Ðặc biệt, vú sữa lại đơm bông kết trái đúng vào cuối đông sắp Tết Nguyên Ðán. Cũng theo tài liệu, thì xã Kim Sơn được thành lập rất sớm trong trấn Ðịnh Tường, vào đầu thế kỷ thứ XVIII, do tiên hiền Lê Công Báu, nhưng dân chúng kiêng cữ đã đọc là Bích. Về sau ông được nhà Nguyễn phong làm Thành Hoàng và vẫn được dân chúng điạ phượng thờ kính cho tới ngày nay.
Xoài Mút chảy từ Giòng Dứa thuộc Ấp Thạch Long tới Ấp Thạnh Hưng, xã Phước Thạnh, rồi đổ vào rạch Xoài Hột và ra sông Mỹ Tho (Tiền Giang). Khúc rạch này cũng giống như Rạch Gầm rất um tùm. Hai bên bờ đầy dừa nước và cây bần mọc gie ra ngoài, tạo nên địa thế quanh co hiểm trở. Ở đây ngày xưa mọc đầy một loại xoài trái nhỏ, hột to, cơm ít, nên muốn ăn phải mút, nên mới xuất hiện danh xưng Xoài Mút. Ngày nay dân địa phương đã chặt bỏ hết để lấy đất làm vườn, nên họa hoằn lắm mới thấy một vài cây còn sót lại. Về hành chánh, thì Xoài Mút là tên con rạch, còn Xoài Hột là tên của một ngôi chợ thuộc xã Thạnh Phú, kế xã Bình Ðức. Rạch Gầm cách Xoài Mút 7km và thành phố Mỹ Tho chừng 14 km.
+ Vua Quang Trung (Nguyễn Huệ):
Trong dòng Việt sử, dù triều đại Tây Sơn hiện hữu thật ngắn ngủi (1778-1802) nhưng qua hai chiến thắng bất hủ: Trận Thủy Chiến Rạch Gầm tiêu diệt quân Xiêm và Xuân kỷ Dậu đại thắng quân Thanh, đã đưa tên tuổi Quang Trung-Nguyễn Huệ, lên hàng Ðại Ðế, sánh bằng các quân vương-dũng tướng của dân tộc Hồng Lạc mọi thời như Ngô Quyền, Lê Ðại Hành, Lê Thánh Tông, Lý Thường Kiệt, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Ðạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Hữu Cảnh, Lê Văn Duyệt...
Dù không đồng chính kiến nhưng tất cả các sử gia triều Nguyễn cũng như đọc qua các thiên du ký của các nhà truyền giáo phương tây. Ai cũng xưng tụng ông là một trong những thiên tài quân sự lửng lẫy của VN, có thể so sánh với các tên tuổi như Ðại Ðế Alexander Le Grand của Hy Lạp và vua Hung Nô Attila, là những thiên tài quân sự bách chiến bách thắng.
Giống như các bậc danh tài trên, trong khi dùng binh vua Quang Trung luôn luôn theo đúng binh pháp Tôn Tử-Trần Hưng Ðạo-Nguyễn Trãi, đạt yếu tố bất ngờ, hành binh thần tốc và trên hết là biết tiên liệu tình hình địch, trước khi quyết định bày binh bố trận và tấn công. Ngoài ra để nêu gương với sĩ tốt cùng thuộc tướng dưới quyền, ông luơn luôn xông xáo nơi trận mạc, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, lâm trận đi đầu hàng quân, hiệu lệnh rất nghiêm minh. Bởi vậy, tướng sĩ ai cũng muốn hăm hở, lăn xả vào cái chết, để được đền ơn nhà trả nợ nước, xứng đáng bổn phận làm trai nước Việt. Ngoài thiên tài quân sự, vua Quang Trung còn được các sử gia đề cao là một nhà chính trí có thao lược, điển hình qua cách chiêu hiền đãi sĩ, kính trọng tài năng mọi người không phân biệt bất cứ một ai. Riêng tư cách thì hòa nhã độ lượng, trong khi đối xử với vua Lê và cái chết của chúa Trịnh Khải.
Nói chung từ trước tới nay, qua dòng lịch sử, VN có ba thiên tài quân sự là Hưng Ðạo Ðại Vương Trần Quốc Tuấn, Bình Ðịnh Ðại Vương Lê Lợi và Ðại Ðế Quang Trung-Nguyễn Huệ. Nhưng mỗi người đều có phép hành binh riêng biệt. Với Hưng Ðạo Vương, sở trường về lối đánh "Dùng ít chọi đông "mà binh pháp gọi là Dàn Binh, Tướng Trận. Còn Bình Ðịnh Vương Lê Lợi thì ứng dụng phép "Dĩ Dật Ðãi Lao", tức là lối đánh du kích, làm tiêu hao lực lượng địch. Trái lại Quang Trung Nguyễn Huệ thì luôn luôn sử dụng vận động chiến, tấn công địch trước trong tư thế mạnh với quân số, hỏa lực, mưu kế và phương tiện.
+ Thủy Quân VN dười thời Tây Sơn:
Từ năm 1627-1672, Trịnh Nguyễn đã đánh nhau bảy lần, trên chiến trường Nam và Bắc Bố Chánh (tỉnh Quảng Bình ngày nay), nhưng bất phân thắng bại. Trong lúc giao tranh, cả hai phía gần như chỉ sử dụng bộ chiến, dù cả hai đều có một đạo thủy quân rất quan trọng. Theo tài liệu của giáo sĩ Alexandre de Rhodes, thì chúa Nguyễn ở Nam Hà có 200 chiến thuyền loại Galéré, họ Trịnh ở miền Bắc có tới 600 chiếc. Còn Quang Trung Nguyễn Huệ trái lại, đã đề cao vai trò thủy quân trên hết. Nhà vua đã cách mạng hoá hải quân bằng lối đóng thuyền cho phù hợp với bờ biển VN, trong đó đặt nặng việc trang bị vũ lực trên tàu thuyền.
Theo sử liệu, thủy quân Tây Sơn có nhiều tàu vận tải cũng như tàu chiến, số lượng trên 1000 chiếc. Một du khách người Anh tên John Barraw, tới thăm Ðàng Trong vào thế kỷ XVIII, đã viết: ’Người Việt ở đây có một nghề rất tự hào, đó là kỹ thuật đóng tàu đi biển". Theo tác giả, thuyền của Người Việt rất đẹp, chiều dài từ 50-80 pieds (1 pied bằng 0,30m), được ghép bằng 5 tấm ván, ăn khít nhờ có mộng bên trong. Thuyền lại được chia thành nhiều khoang kín, nên rất khó chìm.
Theo Jean Baptiste Chaigeau, một võ quan người Pháp từng theo giúp chúa Nguyễn Ánh, cho biết thủy quân Tây Sơn gồm có nhiều hải đội, tổ chức khác nhau tùy theo trang bị. Do đó có thủy đội gồm 9 tàu, mỗi chiếc được trang bị tới 66 khẩu đại bác loại đường kính 24. Có thủy đội chỉ có 5 tàu, mỗi chiếc mang 50 khẩu đại bác cũng loại 24. Có thủy đội gồm tới 40 tàu, mỗi chiếc trang bị 16 khẩu đại bác cỡ 12 ly và một thủy đội đặc biệt gồm 93 tàu, mỗi chiếc chỉ có một khẩu đại bác lớn, nòng cỡ 36. Ngoài ra còn có 300 pháo hạm và 100 tàu buôn cỡ lớn. Tất cả tàu thuyền của Tây Sơn đều dùng cánh buồm hình chữ nhật.
Về thủy quân trên tàu, thì mỗi thủy đội loại trang bị 66 khẩu đại bác, có quân số trên 700 người. Quân Tây Sơn được trang bị rất mạnh, vũ khí cá nhân gồm giáo mác, còn có súng điểm thương nhưng lợi hại nhất vẫn là loại súng phun lửa, gọi là "Hoả Hổ’ khi hai bên cận chiến. Nhờ những ưu thế về trang bị cũng như kỹ thuật tác chiến, nên thủy quân Tây Sơn đã thắng quân Xiêm một cách dễ dàng. Mặc dù lúc đó hạm đội Xiêm La cũng rất tân tiến, vì được đóng theo kỹ thuật Tây Phương, mà người Việt gọi là Tháp thuyền. Ðây là loại ghe tam bản rất cao lớn, trên có pháo tháp trí súng đại bác. Các thủy thủ ngồi ngoảnh mặt về phía bánh lái mà chèo.
+ Thủy Chiến tại Rạch Gầm, Xoài Mút:
Các sử gia hiện nay, khi viết về chiến thắng của Vua Quang Trung tại Rạch Gầm-Xoài Mút, đều thắc mắc về việc hành quân của Tây Sơn. Ngay khi nghe hung tin, đại quân Xiêm La gồm thủy bộ hơn 50 vạn và 300 tháp thuyền, đã chiếm gần hết các trấn tại Nam phần. Hiện thủy quân Xiêm đã tới trấn Ðịnh Tường. Trong lúc đó Long Nhưỡng tướng quân là Nguyễn Huệ còn ở tận Qui Nhơn. Vậy ngài đã cho thủy quân từ biển vào cửa Tiểu để tới Mỹ Tho hay là vào cửa Cần Giờ, rồi men theo dòng Vàm Cỏ Tây để tới Rạch Gầm Xoài Mút, tạo yếu tố bất ngờ, đối với quân Xiêm? Chuyện này đã không thấy các nhà sử học xưa đề cập tới, kể cả các tài liệu của quốc sử quán triều Nguyễn.
Nhưng về chiến tích của trận thủy chiến lịch sử, thì hiện nay vẫn còn đầy rẫy trên đất Ðịnh Tường cũng như trong kho tàng văn chương bình dân bản địa, qua các bài hát ru em, ca dao, tục ngữ... "
"Ầu ơ, Rạch Gầm-Xoài Mút tăm tăm xế xuống chút nữa, là vàm Mỹ Tho bần gie đóm đậu sáng ngời Rạch Gầm-Xoài Mút muôn đời oai linh Chẻ tre bện sáo cho dầy Ngăn ngang sông Mỹ có ngày gặp nhau Hay: "gái Mỹ Tho mày tằm mắt phượng Giặc đến nhà, chẳng vụng hươi đao... "
Ngày nay người dân sống ở rạch Bà Hào, kế rạch Gầm, vẫn thường hay kể những chuyện ma quỷ xuất hiện, vào những đêm mưa to gió lớn, mà họ quả quyết, đó là ma Xiêm, chưa được siêu thoát, dù cuộc chiến đã tàn hơn vài thế kỷ. Cũng ở vùng này, còn có một địa danh mang tên là "Nghĩa địa Xiêm’ vì có nhiều thuyền tháp bị chìm, hiện vẫn còn trơ các hàng cột ở Ðìa Ðôi (Ấp Hội), đầu cồn Phú Túc (Bến Tre). Ngoài ra còn nhiều quân dụng của lính Xiêm bỏ lại trận địa, được tìm thấy như súng thần công, gươm giáo, ấm, chén, nồi đồng... tại vàm Rạch Gầm.
Mùa thu năm 1785, vin vào cớ giúp Nguyễn Ánh đang bị quân Tây Sơn truy sát. Vua Xiêm Rama 1, cho 50 ngàn quân thủy bộ, tấn công VN bằng hai cánh quân. Lộ quân bộ chiến gồm 3 vạn, từ Nam Vang vào Nam Phần. Cánh thứ hai gồm 20 ngàn thủy quân, với 300 tháp thuyền. Cánh quân thủy này do hai người cháu của vua tên Chiêu Sương và Chiêu Tăng thống lãnh, theo đường biển, vào cửa Rạch Giá ngày 25-7-1785. Hai đạo quân Xiêm thế mạnh như chẻ tre, lần hồi chiếm hết các dinh trấn tại Nam phần như Kiên Giang, Trấn Giang, Ba Thắt, Trà Ôn, Măng Thít... và tới Ðịnh Tường. Bấy giờ đạo quân tinh nhuệ nhất của chúa Nguyễn Ánh ở Nam Phần đã bị tan vỡ vì chúa tướng là Châu Văn Tiếp tử thương, nên không còn ai có thể cản nổi quân Xiêm. Do đó, trên bộ cũng như dưới sông, quân Xiêm tới đâu, cũng cướp của giết người, hãm hiếp phụ nữ Việt, tiếng than oán vọng tận trời cao, thật là thảm tuyệt.
Tin dữ tới Phú Xuân, nên Long Nhưỡng tướng quân được lệnh, tức tốc đem quân thủy bộ từ Qui Nhơn vào Nam cứu viện. Lúc đó trời đang cuối đông, chỉ còn vài ngày nữa là đón Tết Giáp Thìn 1785. Ðể có thể tiêu diệt quân Xiêm đang trong thế mạnh và đông hơn quân ta, ông cho bày diệu kế, bằng lối mai phục rồi bất thần đánh úp tàu giặc đang neo đầy trên sông Mỹ Tho, giữa đọan Rạch Gầm-Xoài Mút. Ðồng thời dùng hỏa công trận, để thiêu rụi toàn bộ thủy quân Xiêm.
Mở đầu cuộc tấn công, quân Tây Sơn dùng cùi, lá và dầu dừa trộn chung với dầu mù u để làm bè lửa. Lại bày nghi binh kế, bằng cách lấy vỏ dừa khô rồi vẽ mặt người, đoạn kết thành bè, thả trôi lềnh bềnh gần chỗ thuyền giặc đậu. Chính diệu kế này, khiến cho quân Xiêm hoảng hốt, cứ ngỡ là quân Tây Sơn lặn đục thuyền, nên các tàu liên tiếp nhả đạn cho tới hết. Ðể nắm vững tình hình trận chiến, ông cho dựng hai chòi chỉ huy ở hai đầu sông, một tại Chùi Mong (đầu rạch Xoài Mút), còn chòi kia ở vàm Rạch Gầm. Hai chòi chỉ huy có nhiệm vu ban lệnh tấn công, khi thấy thuyền quân Xiêm lọt hết vào trận địa. Ngoài ra không muốn để cho một thuyền giặc nào còn sống sót, Nguyễn Huệ cho chẻ tre bện thành sáo dầy có cột đá hòn, để ngăn dòng Tiền Giang, tại Ấp Tây, thuộc xã Kim Sơn, ngược vàm Rạch Gầm khoảng 1 cây số.
Khi toàn bộ chiến thuyền của Quân Xiêm đã lọt vào khúc sông trận địa, do tín hiệu từ hai chòi chỉ huy cấp báo, lập tức ông ban lệnh tấn công. Lúc đó giữa sông thì lửa đốt, còn trên bờ dùng đại bác, tên và súng phóng lửa nhắm vào 300 tàu giặc mà bắn. Vì quá bất ngờ, nên hai đại tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương cùng 300 tháp thuyền với 20.000 quân, trở tay không kịp, lớp thì chết cháy, phần khác bị quân Tây Sơn giết. Chiêu Sương cùng Chiêu Tăng và vài ngàn tàn quân may mắn lội được vào bờ, cùng với quân bộ chiến, dùng đường bộ chạy về Nam Vang, rồi rút hết về Vọng Các, vì sợ quân Tây Sơn truy sát. Từ đó người Xiêm La bỏ mộng tranh bá đồ vương với Ðại Việt trên bán đảo Ðông Dương, đồng thời sợ người Việt hơn cọp.
Ngày nay nhờ đọc lại những trang sử cũ, ta mới thấy tiền nhân đã mở dựng và giữ nước thật là gian lao cực khổ, có thể nói là người Việt đã đem máu và nước mắt của mình, để tô bồi làm xanh thêm đất, khiên hoa cỏ mới nở rộ được khắp thôn làng, đê cho chúng ta thênh thang tọa hưởng.
Bỗng thấy thấm thía tận cùng về lời nói của vị thánh quân Lê Thánh Tôn cách ta hằng bao thế kỷ: "phải giữ gìn cẩn thận, đừng để ai lấy mất một phần sông núi của tổ tiền để lại’. Xem như thế đủ chứng tỏ rằng tiền nhân từ thời xa xưa, đã thấy trước dã tâm xâm lăng đồng hoá nước Việt của giặc Tàu, nên lúc nào cũng đoàn kết để ngăn chống ngoại xâm.
Vậy mà ngày nay cộng sản VN lại liên tiếp, hết bán đất biên giới, hải đảo, tới sang nhượng biển vùng đánh cá ngàn đời của dân tộc trên biển đông, làm cho cơn hồng thủy sóng thần nổi dậy, trước sự bất lực ù lỳ của một tập đoàn cầm quyền, đang làm nô lệ cho Trung Cộng và tất cả ngoại bang, bất chấp quốc nhục.
Ðúng như sử gia Hoàng Xuân Hãn đã viết:’ trong dòng lịch sử Việt, khi thế nước bị suy vi hèn yếu vì chia rẽ, thì giặc Tàu mới dám lấn đất dành biển".
Không biết ngày nào cả nước mới có dịp theo sau gót ai, để đánh đuổi rợ Hồ, quang phục đất nước, như ngày xưa dân Việt đã theo sau bóng voi của Quang Trung Ðại Ðế vào Rạch Gầm-Xoài Mút đốt tàu giặc Xiêm hay ra Bắc Hà đánh đuổi quân Mãn Thanh chạy về Tàu vào những ngày Tết Kỷ Dậu 1789.
"Nhà tan sống cũng lạc loài thánh hiền sách nát đọc hoài hay sao? biển Ðông sóng vỗ ào ào ta nương cánh gió đi vào cõi xa ngày mai cũng có một ngày theo chân voi trận để vào Thăng Long... "
Xóm Cồn
MƯỜNG GIANG
2007.12.24 Việt Hùng, thông tín viên đài RFA Lên tiếng về vấn đề biên giới lãnh hải Việt Nam – Trung Quốc hiện đang kéo theo một số cuộc biểu tình của thanh niên sinh viên trước cơ quan ngoại giao của Trung Quốc ở Việt Nam, nhà văn Nguyễn Viện từ thành phố Hồ Chí Minh cho rằng hơn ai hết những người cầm bút tại Việt Nam cần thể hiện lòng yêu nước qua tiếng nói của trái tim. Mời quý vị theo dõi cuộc trao đổi của Việt Hùng với nhà văn Nguyễn Viện. Nhà văn Nguyễn Viên. Hình do ông cung cấp. Việt Hùng: Thưa nhà văn, lý do nào mà nhà văn lại nhập cuộc phản đối việc Trung Quốc lấn lướt Việt Nam trong vấn đề biên giới lãnh hải… Nhà văn Nguyễn Viện: Tại vì tôi nghĩ trước hiểm họa Trung Quốc xâm lược Việt Nam trong quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì tôi nghĩ bất cứ một người Việt Nam yêu nước nào cũng cần phải lên tiếng. Tôi nghĩ sự lên tiếng này thực sự cần thiết không những đối với người Việt Nam mà ngay cả đối với chính phủ Việt Nam cũng thế. Việt Hùng: Đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc lấn lướt Việt Nam trong vấn đề biên giới lãnh hải, tuy nhiên đây là lần đầu tiên có thể nói văn nghệ sĩ tại Việt Nam đã vào cuộc. Với cái nhìn của nhà văn lý do nào mà giới văn nghệ sĩ lại đồng loạt lên tiếng như vậy? Nhà văn Nguyễn Viện: Những lấn lướt về vấn đề biên giới lãnh thổ của Trung Quốc đối với Việt Nam, tất cả những lần trước thông tin cũng không rõ ràng và cụ thể lắm, nhưng việc vừa qua Trung Quốc thành lập huyện Tam Sa để quản lý hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam, tôi nghĩ hành động này của Trung Quốc đã thách thức chính thức với nhân dân Việt Nam. Trên cơ sở thực tế như vậy, những người dân ở Việt Nam và đặc biệt là văn nghệ sĩ, chúng tôi cảm thấy rằng hơn lúc nào hết mình phải lên tiếng. Hẳn lên tiếng thì hẳn cũng khó đòi lại trong lúc này, nhưng lên tiếng để cho phía Trung Quốc biết rằng hành động xâm lược như thế của Trung Quốc là không đúng. Việt Hùng: Nhà văn đánh giá việc trong 2-3 tuần lễ vừa qua thanh niên sinh viên xuống đường biểu tình trước cơ quan ngoại giao của Trung Quốc như thế nào? Những lấn lướt về vấn đề biên giới lãnh thổ của Trung Quốc đối với Việt Nam, tất cả những lần trước thông tin cũng không rõ ràng và cụ thể lắm, nhưng việc vừa qua Trung Quốc thành lập huyện Tam Sa để quản lý hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam, tôi nghĩ hành động này của Trung Quốc đã thách thức chính thức với nhân dân Việt Nam. Nhà văn Nguyễn Viện
Nhà văn Nguyễn Viện: Tôi cho đó là lòng yêu nước tự phát của thanh niên, sinh viên đối với tình hình Trung Quốc xâm lược Việt Nam như vậy, thể hiện lòng yêu nước trong sáng và cũng thể hiện rằng dân tộc Việt Nam còn sức phản kháng, nó không hoàn toàn bị tê liệt hay phải được một sự chỉ đạo thì người ta mới thể hiện lòng yêu nước của mình. Qua dịp này người ta thấy rằng lòng yêu nước thực sự không cần ai chỉ đạo mà đó là tiếng nói của trái tim của mỗi người. Việt Hùng: Tiếng nói của trái tim thể hiện lòng yêu nước, thế tuy nhiên trong những cuộc biểu tình đó không ít người bị bắt , bị tra vấn. Với cái nhìn của nhà văn và bằng thực tế ở Sài Gòn nhà văn nhận định vấn đề này ra sao? Nhà văn Nguyễn Viện: Nhà nước trong trường hợp vừa qua làm khó dễ một số người đi biểu tình tôi cho đó là “làm đẹp” cho vấn đề ngoại giao với Trung Quốc thôi. Chính phủ Việt Nam cũng có lý của họ, nhưng những người đi biểu tình còn có lý của họ còn mạnh mẽ hơn đó là lòng yêu nước. Việt Hùng: Phát ngôn nhân Bộ ngoại giao Trung Quốc nói những cuộc biểu tình sẽ phương hại đến quan hệ ngoại giao giữa hai nước thì về phía Việt Nam qua lời ông Lê Dũng, phát ngôn nhân Bộ ngoai giao Việt Nam, dường như dư luận thấy Việt Nam ở thế thụ động nhiều hơn… Nhà văn Nguyễn Viện: Vâng, không những quá thụ động mà người ta cảm thấy thiếu một cái gì đó thể hiện ý chí của dân tộc trong trường hợp này. Tôi nghĩ rằng trong trường hợp này chính phủ có đường lối riêng của họ trong vấn đề đàm phán, nhưng chính phủ cũng phải để cho nhân dân nói lên tiếng nói của mình, nhưng rất tiếc chính phủ đã không thể hiện được việc đó mà ngược lại chính phủ Việt Nam lại có vẻ chiều theo những đòi hỏi của Trung Quốc một cách quá đáng. Việt Hùng: Người ta vẫn thường nói, nhà văn bao giờ cũng có cái cảm trước thời cuộc, đứng trước hiện trạng như hiện nay nhà văn cảm được điều gì? Nhà văn Nguyễn Viện: Tôi nghĩ nỗi đau của một con người khi mất mát một điều gì đấy sẽ đau đớn ghê lắm… Khi một đất nước, Tổ quốc mất đi môt phần thân thể của mình thì cũng giống như con người mất đi một phân thân thể. Cái mất đó như là khi mình mất đi một phần thân thể, tôi nghĩ nó vô cùng đau đớn. Hơn nữa chúng ta đều biết dân tộc Việt Nam tồn tại được là chúng ta đã biết gìn giữ những gì cha ông đã gây dựng lên, thế nhưng bây giờ khi Trung Quốc chiếm Hoàng Sa và Trường Sa thì dường như chúng ta phải đối diện với sự im lặng quá lớn và không còn cách nào khác ngươì nghệ sĩ là người ngoài cái nhạy cảm của mình người nghệ sĩ còn có may mắn là còn có tiếng nói của mình, bởi vậy không những ngoài nhiệt huyết vì quê hương đất nước qua điều kiện của một nhà văn hay của một văn nghệ sĩ, người ta cần nói tiếng nói không những cho mình và cho cả dân tộc mình nữa… Sinh viên, Thanh niên Việt Nam biểu tình phản đối Trung Quốc hôm Chủ nhât 9-12 tại Hà Nội. AFP PHOTO. Việt Hùng: Nhưng thưa nhà văn Nguyễn Viện, cho đến nay, cá nhân nhà văn cũng những bạn văn khác của nhà văn như nhà văn Nguyễn Khắc Phục, Trần Tiến Dũng, nhà thơ Bùi Minh Quốc và một số văn nghệ sĩ khác tại Việt Nam, những sự lên tiếng này phản ứng của Hội nhà văn Việt Nam như thế nào? Nhà văn Nguyễn Viện: Tôi nghĩ rằng trong mỗi cá nhân của mỗi con người Việt Nam tôi nghĩ tất cả mọi người đều có cái bức xúc đó, nhưng đứng trên quan điểm đoàn thể thì như anh biết các đoàn thể ở Việt Nam đều phải chịu sự chi phối của đảng cộng sản và chuyện đó nằm ngoài sự hiểu biết của tôi hiện nay… Việt Hùng: Nhưng nhà văn có nghĩ rằng việc xuống đường của thanh niên sinh viên được sự hậu thuẫn của không ít văn nghệ sĩ tại Việt Nam như ngọn đuốc được châm thêm… Nhà văn Nguyễn Viện: Vâng cái này thì tôi hoàn toàn đồng ý, lòng yêu nước sôi nổi của thanh niên sinh viên không những với một số anh em văn nghệ sĩ chúng tôi đã tham gia cụ thể và một số người khác thì dùng những sáng tác của mình để cùng đốt lên một ngọn lửa và để cho ngọn lửa đó cháy lên rực rỡ hơn, mạnh mẽ hơn. Việt Hùng: Cá nhân nhà văn trong những cuộc biểu tình vừa rồi ở Sài Gòn nhà văn có tham dự hay không? Nhà văn Nguyễn Viện: Hôm đầu tiên thì lúc đó tôi đang ở Thái Lan, lần thứ hai thì chúng tôi cũng có mặt tham gia ở Sài Gòn, tuy nhiên tôi được công an giám sát từ hôm thứ Bảy (15-12) thế thành ra hôm Chủ Nhật (16-12) cũng chỉ ra đó để theo dõi tình hình thôi. Việt Hùng: Nhà văn nói là nhà văn được sự quan tâm giám sát của công an thì tức là sao thưa nhà văn? Nhà văn Nguyễn Viện: Có sự khuyến cáo, nhưng tôi vẫn ra để tôi chụp hình và được an ninh kéo ra để hỏi … Ngày hôm qua Chủ Nhật (23-12) thì tôi cũng ra để xem tình hình thế nào và chính tôi cũng chứng kiến cảnh công an bắt nhà báo Điếu Cày. Việt Hùng: Một câu hỏi cuối cùng thưa nhà văn Nguyễn Viện, với những bạn văn, với những văn nghệ sĩ hiện chưa có cơ hội lên tiếng bày tỏ chính kiến của mình trong vấn đề này, qua làn sóng điện của đài nhà văn có muốn nói điều gì hay không? Nhà văn Nguyễn Viện: Tôi nghĩ đối với tất cả mọi người thì nhà văn hay không phải nhà văn thì nên bày tỏ chính kiến của mình một cách minh bạch và đàng hoàng nếu như mình có điều kiện để làm việc đó. Tôi nghĩ hơn ai hết nhà văn là những người có điều kiện nhất trước tình trạng mà chúng ta bị mất đất như vậy thì không có lý do gì mà chúng ta có thể giữ im lặng được. Tất cả mọi sự im lặng thì có thể hiểu đó là sự khiếp nhược. Việt Hùng: Thay mặt quí thính giả của đài cám ơn nhà văn Nguyễn Viện.
|
|
|