Cuộc đối đầu Đài Loan – Đại lục trong mối duyên nợ tay ba: Đài Loan – Trung Quốc – Nhật Bản
Ngày quốc khánh ở Đài Loan có điều gì lạ?
Ngày 10/10 là quốc khánh của Đài Loan, còn gọi là ngày lễ Song Thập, đây là ngày kỷ niệm cuộc khởi nghĩa Vũ Xương 10/10/1911, còn gọi là Cách mạng Tân Hợi vì sự việc xảy ra vào năm Tân Hợi. Cách mạng Tân Hợi đã làm sụp đổ hoàn toàn triều đại quân chủ của nhà Thanh.
Lý do gì mà Đài Loan – một hòn đảo nằm tách biệt lại lấy một ngày kỷ niệm sự việc xảy ra tại Trung Hoa đại lục làm ngày quốc khánh của mình? Đài Loan có liên hệ gì với Trung Hoa đại lục? Nguồn gốc sự việc chỉ có thể tìm trong lịch sử hình thành của quốc đảo, không thể tách rời mối quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan, và không thể không liên đới với một quốc gia nhiều duyên nợ là Nhật Bản… Hay nói cách khác, đó chính là đầu mối của tất cả những rắc rối địa chính trị đang xảy ra ở khu vực này ngày hôm nay.
Đài Loan – vị trí địa lý
Người ta vẫn gọi Đài Loan, nhưng tên chính thức của quốc đảo này là Trung Hoa Dân Quốc. Đài Loan chỉ là tên một hòn đảo chính nằm trong nhóm đảo nằm ở phía Tây Bắc Thái Bình Dương, tọa lạc giữa quần đảo Ryukyu của Nhật Bản và quần đảo Philippines, cách Trung Quốc đại lục từ 130 – 180km qua eo biển Đài Loan.
Diện tích của Đài Loan khoảng 36,000 km2, tổng nhân khẩu ước tính chừng 23,5 triệu người. Đài Loan nằm ở giao giới giữa khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, lại có lượng mưa dồi dào nên cây cỏ quanh năm xanh tốt, thổ hải sản đều phong phú, cảnh quan hùng vĩ diễm lệ, nên còn có cái tên Latin là Formosa. Chuyện là vào năm 1554, thủy thủ trên tàu buôn của người Bồ Đào Nha đi qua vùng biển Đài Loan, thấy hòn đảo rất đẹp nên phấn khích hô vang “Ilha Formosa!” – có nghĩa là “hòn đảo xinh đẹp”. Trước thập niên 1950, các quốc gia châu Âu chủ yếu gọi Đài Loan là “Formosa”.

Một số chiến lược gia gọi chuỗi đảo ở Đông Á (trong đó có Đài Loan) là “Vạn lý trường thành ngược”. Các sĩ quan và chiến lược gia hải quân của Trung Quốc coi Trung Quốc như bị “đóng hộp” bởi chuỗi quần đảo này.
Đài Loan trong mối quan hệ giữa hai bờ eo biển
Từ thời kỳ cổ đại đến năm 1895
Sách vở vùng Trung Nguyên đã nói đến vùng đất này từ thời kỳ Tam Quốc, lúc đó Đài Loan được gọi là Di Châu. Trong “Tam Quốc chí”, phần “Ngô chí” có nói đến việc quân đội nước Ngô của Ngô Tôn Quyền đã từng vượt biển đổ bộ lên hòn đảo này. Sang đến thời kỳ Tùy – Đường, người ta gọi Đài Loan là Lưu Cầu quốc và quân đội Trung Nguyên cũng có lần đổ bộ lên hòn đảo, xung đột với dân địa phương, bắt được tù binh rồi về, điều này được ghi chép trong “Tùy thư – Lưu cầu truyện”. Đa số những thư tịch cổ này cho rằng Đài Loan là một hòn đảo bốn mặt vây quanh bởi núi, không có băng tuyết mùa đông và chỉ có “đám rợ núi” sống ở đó. Họ không thấy lợi ích gì khi chiếm đóng vùng đất này.
“Đám rợ núi” mà người Trung Nguyên đề cập đến chính là những chủ nhân lâu đời nhất của vùng đảo này – những thổ dân theo ngữ hệ Nam Đảo, thứ ngôn ngữ được chia sẻ tại các hải đảo Đông Nam Á và Thái Bình Dương, Madagascar và một phần nhỏ tại đại lục châu Á.
Suốt thời kỳ triều Đường, Tống, Nguyên… có một số giao dịch giữa Trung Nguyên và thổ dân ở đảo, nhưng không có sự chiếm đóng hay định cư của người Đại lục trên hòn đảo này. Bất quá họ chỉ lập ra trại tuần kiểm ty – một loại cơ quan kiểm soát, ngăn chặn sự phá phách của thổ dân địa phương và cả Oa khấu – tức là hải tặc Nhật Bản. Cơ quan này được đặt tại Bành Hồ – một hòn đảo nhỏ thuộc chùm đảo của Đài Loan hiện nay.
Sang đến đầu thời Minh, triều đình tài trợ cho hoạt động thám hiểm đại dương của đô đốc Trịnh Hòa. Trịnh Hòa đã có sự tiếp xúc với thổ dân Đài Loan, nhưng cũng không chiếm đóng đất này. Sau 7 chuyến hải hành tốn kém của Trịnh Hòa, nhà Minh không tiếp tục tài trợ cho hoạt động khám phá bằng đường biển, thậm chí còn ban hành lệnh “hải cấm”, tức là cấm đi biển. Đài Loan vẫn nguyên vẹn là vùng đất của thổ dân Nam Đảo. Chung quy cũng vì từ thời cổ đại, các triều đại ở Trung Hoa đều không lấy hoạt động hải dương làm trọng.
Và cũng vì phương tiện vận tải biển của nhân loại chưa có đủ sức mạnh để vượt qua những khoảng cách lớn trên đại dương.
Mãi đến đầu thế kỷ 17, các quốc gia phương Tây ban đầu là Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha rồi đến Hà Lan phát triển mạnh về lực lượng tàu biển, đi khắp thế giới, và họ đã đến Đài Loan. Người Hà Lan xung đột với quan quân nhà Minh tại Bành Hồ. Bị đuổi đi, họ đến xây dựng pháo đài An Bình (hay Zeelandia) trên đảo chính Đài Loan để làm cứ điểm, rồi chiêu tập người Hán ở miền duyên hải tỉnh Phúc Kiến thuộc Đại lục đến Đài Loan để khai khẩn. Đó hầu hết là những nạn dân, chạy loạn, trốn đói, hoặc trốn tù.
Từ căn cứ này, người Hà Lan đã tiến hành phong tỏa, cướp bóc vùng duyên hải Phúc Kiến và đã bị đánh bại bởi thủy quân Minh triều, chỉ huy bởi tướng Trịnh Chi Long trong cuộc hải chiến mà sử gọi là cuộc hải chiến Minh – Hà Lan vào thời vua Sùng Trinh. Tuy vậy, mãi đến khi kết thúc triều Minh, người Hà Lan mới bị xóa sổ khỏi Đài Loan bởi một nhân vật thuộc phong trào “phản Thanh – phục Minh”, đó là Trịnh Thành Công, sự việc dẫn đến lần chiếm đóng đầu tiên với quy mô lớn của người Hán lên vùng đảo này.

Trịnh Thành Công. (Phạm vi công cộng)
Bấy giờ tại Trung Nguyên, người Mãn Châu chiến thắng nhà Minh, lập nên triều Đại Thanh. Quân đội Bát Kỳ của nhà Thanh tiến vào Phúc Kiến, Trịnh Chi Long đầu hàng nhưng con trai ông là Trịnh Thành Công lãnh đạo một bộ phận quân kháng chiến chạy ra đảo Kim Môn – nay cũng thuộc Đài Loan, rồi dần dần chạy ra đảo chính Đài Loan, lấy Đài Loan làm căn cứ khôi phục Minh triều. Tại đây 25 nghìn tướng sĩ cùng vài trăm chiến hạm của Trịnh Thành Công đã chiến thắng bọn “quỷ Hồng mao” – một cách gọi của người Hán đối với người Hà Lan râu tóc hung đỏ, như câu chuyện dựa trên sự thực lịch sử được miêu tả rất sinh động trong tiểu thuyết nổi tiếng “Lộc Đỉnh Ký” của văn hào Kim Dung.
Mấy thế hệ của họ Trịnh đã cát cứ vùng đảo này, cho đến đời Trịnh Khắc Sảng – cháu nội của Trịnh Thành Công, thì quân đội họ Trịnh bị tiêu diệt toàn bộ bởi quân đội của Thanh triều Khang Hy vào năm 1683. Tuy vậy, sau đó Thanh triều khống chế nghiêm ngặt người Hán từ Đại lục sang Đài Loan và giao quyền quản lý Đài Loan cho tỉnh Phúc Kiến, vốn ở gần Đài Loan nhất.
Mãi đến năm 1885, danh tướng Tả Tông Đường mới đề xuất Thanh triều cần phải chuyển Đài Loan thành một tỉnh để xây dựng ở đây một lực lượng phòng thủ đủ mạnh trước phương Tây. Nhưng tỉnh Đài Loan của Đại Thanh chỉ tồn tại trong 10 năm, vì đến năm 1895, Thanh triều đã phải cắt nhượng Đài Loan cho Nhật Bản sau khi bại trận trong cuộc chiến Thanh – Nhật, theo Điều ước Mã Quan (hay Shimonoseki).
Đài Loan chỉ trở lại thuộc quyền quản lý của người Hán tại Hoa lục vào năm 1945 dưới một cái tên mới, nhờ công lao của một vị anh hùng. Cái tên ấy chính là Trung Hoa Dân Quốc và vị anh hùng là Tổng thống Tưởng Giới Thạch.
Từ năm 1945 đến nay
Đài Loan vì sao có tên chính thức là Trung Hoa Dân Quốc, và lấy ngày 10/10 làm quốc khánh? Muốn hiểu điều này ta phải quay lại ngày 10/10/1911, ngày bắt đầu cuộc khởi nghĩa Vũ Xương – sự kiện mở màn cho cách mạng Tân Hợi.
Cuộc cách mạng này do bác sĩ Tôn Trung Sơn lãnh đạo, đã lật đổ Thanh triều, xây dựng chế độ Cộng hòa đại nghị với Tôn Trung Sơn làm Đại Tổng thống, quốc hiệu đổi từ Đại Thanh trở thành Trung Hoa Dân Quốc. Sau khi Tôn Trung Sơn mất đi, Tưởng Giới Thạch là người lãnh đạo cao nhất của quân đội Trung Hoa Dân Quốc tiến hành Bắc phạt, cuối cùng đã chinh phục các thế lực quân phiệt cát cứ, thống nhất Trung Hoa, trở thành Chủ tịch Chính phủ Quốc dân của Trung Hoa Dân Quốc vào năm 1928.
Sau sự kiện Lư Câu Kiều năm 1937, ông tiếp tục lãnh đạo Trung Hoa Dân Quốc kháng Nhật. Từ thủ đô kháng chiến Trùng Khánh, Tưởng đã dẫn dắt nhân dân Trung Hoa chiến thắng một kẻ thù hùng mạnh nhất châu Á thời đó là phát xít Nhật. Năm 1945, phe Trục thua trận, nước Mỹ đồng minh đã yêu cầu nước Nhật bại trận trả lại đảo Đài Loan cho Trung Hoa Dân Quốc. Ngày 25/10/1945, Trung Hoa Dân Quốc chính thức tiếp quản Đài Loan, Bành Hồ.

Chính quyền Đài Loan Trung Hoa Dân Quốc, vốn là chính quyền Trung Quốc chính thống, sau khi triều Thanh diệt vong, Trung Hoa Dân Quốc là chính quyền chính thống của Trung Quốc. (Tổng hợp)
Phe Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) trong chính quyền Trung Hoa Dân Quốc đã hầu như không đóng góp gì trong cuộc chiến kháng Nhật. Mục đích của Mao Trạch Đông và các lãnh tụ ĐCSTQ là “tọa sơn quan hổ đấu”, lợi dụng chiến tranh để bảo tồn và phát triển lực lượng chờ đến ngày cướp chính quyền. Và rồi sau Thế chiến 2, vào năm 1946 họ phát động cuộc nội chiến Quốc-Cộng lần 2 và giành thắng lợi vào năm 1949. Trong cuộc hội đàm năm 1972, Mao còn cảm ơn thủ tướng Nhật Kakuei Tanaka rằng, nhờ có Nhật Bản trong cuộc chiến xâm lược ấy, ĐCSTQ mới giành được chính quyền (Theo cuốn “Đời tư Mao Trạch Đông”).
Chủ tịch Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch và Trung Hoa Quốc Dân đảng đành rút lui ra đảo Đài Loan vào tháng 12/1949. Đài Loan trở thành vùng đất cuối cùng của Trung Hoa Dân Quốc.
Và cũng từ sau tháng 10/1949, ĐCSTQ đổi tên nước thành “Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” (PRC).
Cuộc nội chiến kết thúc mà không có thỏa thuận hòa bình nào, tức là hai bên vẫn ở trong tình trạng chiến tranh. Và kể từ đó, Trung Hoa Dân Quốc (tức Đài Loan) cho đến những năm 1990, vẫn lập kế hoạch quân sự “phản công Đại lục” để “quang phục Trung Hoa”. Ngược lại, PRC dưới sự cai trị của ĐCSTQ thì giương cao khẩu hiệu “Giải phóng Đài Loan”. Hai bên đều cho rằng chỉ có một nước Trung Quốc thống nhất, nhưng lại không thống nhất về việc ai sẽ giữ vai trò đại diện cho nước Trung Quốc này trên trường quốc tế.
Do ảnh hưởng từ thế cục Chiến tranh Lạnh, Liên Hợp Quốc và đa số quốc gia phương Tây tiếp tục công nhận Trung Hoa Dân Quốc là chính phủ hợp pháp đại diện cho Trung Quốc. Nhưng “gió đã xoay chiều”, đồng minh trở mặt vào ngày 25/10/1971 khi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (PRC) đã được Liên Hợp Quốc (LHQ) công nhận là nước Trung Quốc hợp pháp duy nhất thông qua Nghị quyết Đại hội 2758. Nghị quyết này không chỉ được hỗ trợ bởi hầu hết các quốc gia cộng sản (bao gồm Liên Xô) và các nước không liên kết (như Ấn Độ), mà còn bởi một số đồng minh của Mỹ như Anh và Pháp. Sự kiện này xảy ra sau cuộc gặp bí mật của Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger với Thủ tướng Chu Ân Lai của PRC vào năm 1971. Kể từ đó Trung Hoa Dân Quốc cũng bị PRC thay thế vai trò 1 trong 5 thành viên thường trực của Hội Đồng Bảo An LHQ mà họ vốn là thành viên sáng lập.
Và dưới áp lực của ĐCSTQ, Trung Hoa Dân Quốc bị nhiều quốc gia khác xóa bỏ quan hệ chính thức, cái tên Trung Hoa Dân Quốc cũng dần dần bị thay thế bằng Đài Loan, là tên hòn đảo lớn nhất của quốc gia này. Giấc mơ “phản công Đại lục” hay “quang phục Trung Hoa” xưa của người trai đất Thần Châu là Tưởng Giới Thạch không biết bao giờ mới đạt được:
Đằng đằng sát khí khắp hoàn cầu,
Sức chẳng bằng người, buông được đâu
Quang phục Thần Châu, xong trọng trách
Đông du há phải bởi phong hầu
(“Thuật chí” – Tưởng Giới Thạch, viết năm 1909 khi đang du học trường sĩ quan dự bị ở Nhật)
Từ những năm 1990 ước vọng ấy cũng dần bị co lại cho vừa sức hơn, đó là giữ được “Đài Loan độc lập”.
Sự khác biệt căn bản và tương quan lực lượng Trung Hoa Dân Quốc – PRC (hay Đài Loan – Đại lục)
Về quy mô địa lý, dân số, quy mô quân sự… Đài Loan quả là anh chàng David bé nhỏ trước gã khổng lồ Goliath PRC ở Đại lục. Ấn tượng bề ngoài dễ gây nên nhận định sai lầm về tương quan lực lượng đôi bên.
Nhưng Đài Loan hay Trung Hoa Dân Quốc lại mới là dòng chính thống, là người chủ chính thức của mảnh đất Trung Hoa, vì họ kế thừa sự nghiệp của Tổng thống Tưởng Giới Thạch, cũng như Tưởng Giới Thạch lại kế thừa đại nghiệp của Tôn Trung Sơn – Đại Tổng thống được bầu, bậc Quốc phụ của Trung Hoa Dân Quốc sau cuộc Cách mạng Tân Hợi; Họ kế thừa cả văn hóa truyền thống Trung Hoa; Họ lại có công kháng Nhật… rõ ràng là danh chính ngôn thuận hơn ĐCSTQ – kẻ cướp chính quyền với tư tưởng ngoại lai, vốn “sớm đầu tối đánh” suốt từ thời ở Giang Tây năm 1927.
Về chế độ chính trị, Đài Loan là quốc gia theo thể chế dân chủ, là một xã hội cởi mở, tự do, khuyến khích sáng tạo… còn PRC lại là một thể chế độc tài, sắt máu, chà đạp nhân quyền, coi rẻ sinh mệnh.
Về văn hóa, Đài Loan bảo tồn và phục hưng văn hóa truyền thống, chữ viết, là một xã hội có đạo đức, tín Thần, tôn trọng tự do tín ngưỡng, khiến xã hội ổn định, phồn vinh và đáng sống. Đơn cử như cộng đồng người tu luyện Pháp Luân Công tại Đài Loan là đông nhất thế giới ngoài Đại lục, được tự do tu luyện và đóng góp cho xã hội.
Ngược lại, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa phá hủy văn hóa truyền thống, cắt đứt mạch nguồn đạo đức khiến người với người tàn ác như lang sói; lại vô Thần bất tín, đàn áp tôn giáo tín ngưỡng, khiến xã hội ngày càng bất ổn, loạn lạc. Cuộc đàn áp phong trào Pháp Luân Công với những tội ác ghê rợn như cướp mổ nội tạng đã diễn ra mấy chục năm nay chưa dừng lại.
Văn hóa truyền thống, đạo đức mới là nền tảng để xây dựng con người, con người có văn hóa truyền thống, có đạo đức mới kiến thiết nên quốc gia vững mạnh, chính đó là chỗ khác biệt cơ bản giữa Đài Loan và PRC.
Hơn một thế kỷ trước, nhà tư tưởng Phan Châu Trinh nước Việt từng đề xuất con đường để chấn hưng đất nước đó là “Khai dân trí – chấn dân khí – hậu dân sinh”. Trước hết, người dân phải biết phân biệt thiện – ác, đúng – sai, mở mang trí óc, tiếp thụ tinh hoa tri thức rồi mới có tinh thần vững mạnh; có sức mạnh và văn minh tinh thần mới có xã hội phồn vinh, đời sống sung túc. Tình cờ, một hòn đảo Đài Loan xa xôi cách biệt lại làm được điều này.
Tổng thống Tưởng Giới Thạch sinh thời cũng nhấn mạnh: “Sự thịnh vượng của một đất nước và sự thịnh vượng của dân tộc hoàn toàn bắt nguồn từ đạo đức cao thượng của con người nước đó, tri thức tuyệt vời, sự cường tráng về thể chất và sự phát triển của cộng đồng nơi đó…”
Và rằng: “Cái gọi là chiến tranh không phải là chiến tranh thuần túy vật chất, ngoài sức mạnh vật chất còn có sức mạnh tinh thần là cơ bản nhất. Sức mạnh vật chất phải dựa vào sức mạnh tinh thần thì mới đủ mạnh…” (Trích: “Những điều trọng yếu khi Chính phủ và nhân dân hợp lòng cứu nước, 1936”).
Chính sức mạnh tinh thần của trí tuệ và đạo đức cao thượng mới giúp Tưởng và Trung Hoa Dân Quốc chiến thắng nước Nhật phát xít có quân đội hùng hậu và hiện đại gấp nhiều lần.
Sau hơn nửa thế kỷ người Đài Loan được “khai dân trí”, xã hội Đài Loan đã có được “dân khí” và đời sống “hậu dân sinh”. Ngày 24/9/2020, tổ chức Taiwan Thinktank đã công bố kết quả một cuộc thăm dò cho thấy chỉ có 2% người Đài Loan nhận mình là người Trung Quốc (theo Taiwan News). Tổng số người chủ trương độc lập và muốn giữ nguyên trạng lên đến 86%, sự đồng thuận của người dân về vị thế của Đài Loan tăng cao. Dân ý đã quá rõ ràng.
Các chính đảng ở Đài Loan chỉ khác nhau căn bản ở mức độ tiếp xúc với Đại lục chứ tuyệt đối không chấp nhận mô hình “một quốc gia, hai chế độ” tương tự cái mà Bắc Kinh áp dụng với Hong Kong.
Dân khí ở Đài Loan thật khác xa với tình trạng ở Đại lục, nơi mà tướng thì hủ bại, quân dân thì bạc nhược, chính trị gia thì tham nhũng bại hoại, đấu đá với nhau đến sống chết.
Ngày 9/10/2021, ông Tập Cận Bình phát biểu tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh nhân kỷ niệm 110 năm cuộc Cách mạng Tân Hợi 1911 rằng: “Đạt được việc thống nhất tổ quốc bằng các biện pháp hòa bình là phù hợp nhất với lợi ích chung của đất nước Trung Quốc, bao gồm cả đồng bào của chúng tôi ở Đài Loan,”
Và rằng: “Những ai quên tổ tiên, phản bội quê hương, chia cắt đất nước đều phải chịu chung số phận. Họ nhất định sẽ bị nhân dân hắt hủi và bị lịch sử phán xét”. (theo trithucvn.org)
Từ Đài Loan ngày 10/10/2021, trong cuộc mít tinh mừng ngày Quốc khánh, Tổng thống Thái Anh Văn đã đáp trả, bà hy vọng có thể xoa dịu căng thẳng trên eo biển Đài Loan và nhắc lại rằng Đài Loan sẽ không “hành động hấp tấp”.
“Nhưng tuyệt đối không được ảo tưởng rằng người dân Đài Loan sẽ cúi đầu trước áp lực”, bà nói trong bài phát biểu bên ngoài văn phòng tổng thống ở trung tâm Đài Bắc.
Bà Thái còn nói thêm: “Chúng tôi sẽ tiếp tục củng cố quốc phòng và thể hiện quyết tâm tự vệ để đảm bảo rằng không ai có thể buộc Đài Loan đi theo con đường mà Trung Quốc đã vạch ra cho chúng tôi”. (theo Reuters)

Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn vẫy tay chào trong buổi lễ đón trực thăng tấn công Apache AH-64E mới do Mỹ sản xuất tại một căn cứ quân sự ở Đào Viên vào ngày 17/7/2018. (Ảnh của SAM YEH / AFP qua Getty Images)
Chi tiêu cho quân sự của Đài Loan tuy không bằng được Đại lục, nhưng lại sở hữu những công nghệ cao, khó đối phó. Chẳng hạn, gần đây nước này tuyên bố đã chế tạo được hỏa tiễn bay tầm thấp radar khó phát hiện, có thể bắn vào tận Bắc Kinh.
Chính nghĩa đang đứng về phía chàng David Đài Loan trong cuộc đối đầu với gã khổng lồ PRC. Trong khi PRC cô độc không đồng minh, cũng chẳng chư hầu, thì Đài Loan ngày càng nhận được sự ủng hộ trên trường quốc tế từ các quốc gia hùng mạnh như Mỹ, Úc và phương Tây, và đặc biệt có một quốc gia nhiều duyên nợ trong lịch sử với cả Đài Loan và Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa. Đó là Nhật Bản.
Sự kề vai sát cánh của Nhật Bản với Đài Loan khiến cho cục diện chính trị quân sự khu vực này càng thêm kịch tính.

Đến hôm nay, khi Trung Quốc bộc lộ dã tâm không cần che dấu, Nhật Bản dẫu vẫn thận trọng nhưng đã xác định lập trường rõ ràng ai bạn ai thù. Và Nhật Bản cũng không cần che dấu nữa, đã gọi thẳng Đài Loan là một “quốc gia”.
Đến hôm nay, khi Trung Quốc bộc lộ dã tâm không cần che dấu, Nhật Bản dẫu vẫn thận trọng nhưng đã xác định lập trường rõ ràng ai bạn ai thù. Và Nhật Bản cũng không cần che dấu nữa, đã gọi thẳng Đài Loan là một “quốc gia”. (Ảnh: NTDVN tổng hợp)
Kỳ 2: Đài Loan – Nhật Bản, duyên nợ thế kỷ
Nhật Bản thay đổi cách tiếp cận vấn đề Đài Loan?
Theo tờ Nikkei Asia, hôm 16/3/2021, trong cuộc họp Nhật – Mỹ cấp Bộ trưởng Quốc phòng, hai bên đã đưa ra một tuyên bố chung, trong đó khẳng định sẽ không dung thứ cho “hành vi gây bất ổn” của Trung Quốc.
Tokyo cũng xem xét khả năng thực hiện lệnh điều động Lực lượng Phòng vệ SDF “để bảo vệ tàu chiến và máy bay quân sự của Mỹ” nếu xung đột xảy ra.
Tiếp đó, ngày 3/6/2021 Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Toshimitsu Motegi đã gọi Đài Loan là một “quốc gia”. Sáu ngày sau, trên sóng truyền hình quốc gia, cựu thủ tướng Nhật Bản Yoshihide Suga trên sóng truyền hình quốc gia cũng gọi Đài Loan là một “quốc gia”.
Chưa hết, hôm 7/9, Bộ trưởng quốc phòng Nhật Bản Nobuo Kishi tuyên bố rằng, nếu Đài Loan “gặp chuyện”, Nhật Bản không thể đứng ngoài cuộc. Đài Loan có quan hệ mật thiết với Nhật Bản trên nhiều lĩnh vực, là một người bạn quan trọng và có chung giá trị phổ quát với Nhật Bản về tự do, dân chủ, nhân quyền v.v.
Cùng thời gian đó, Thứ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Yasuhide Nakayama nhận xét rằng Nhật Bản và Đài Loan cùng chia sẻ một mối đe dọa. Ông ví Đài Loan với Nhật Bản còn hơn cả mối quan hệ bạn bè, mà giống như một gia đình, như mũi và miệng trên cùng một thân thể vậy.

Thứ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Yasuhide Nakayama nhận xét rằng Nhật Bản và Đài Loan cùng chia sẻ một mối đe dọa. (Ảnh: Chân dung ông Yasuhide Nakayama. Wikipedia/CC BY 4.0)
Ông cũng cho rằng Nhật Bản cần xem xét lại thỏa thuận ngoại giao với Trung Quốc, trong đó Tokyo công nhận chính quyền Bắc Kinh vào năm 1972, thay vì Trung Hoa Dân Quốc như trước đó.
Dĩ nhiên, ngay lập tức Nhật Bản phải tiếp nhận tiếng hú tức tối vọng qua eo biển từ các “chiến lang” to mồm của chính quyền Trung Quốc như Triệu Lập Kiên, Uông Văn Bân, Cảnh Sảng v.v. đang nhảy dựng lên như sói dữ đụng phải lửa.
Với truyền thống tiếp cận ngoại giao đầy thận trọng, phát ngôn gần đây của các chính trị gia Nhật Bản báo hiệu một sự thay đổi rõ ràng trong cách nhìn nhận mối quan hệ của Tokyo với Trung Quốc.
Chúng ta phải lý giải điều này ra sao?
“Không có đồng minh vĩnh viễn, không có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có quyền lợi quốc gia là vĩnh cửu”
Đó là phát ngôn nổi tiếng của Lord Palmerston, người từng hai lần là thủ tướng Anh vào thế kỷ 19 – người nổi tiếng về tài xử lý khủng hoảng và cân bằng cán cân quyền lực, cũng như rất được lòng dân chúng Anh quốc. Mỹ vẫn luôn là đồng minh của Nhật Bản, Đài Loan thì chưa thực sự, Trung Quốc dù không ưa, nhưng vẫn là chỗ để Nhật Bản kiếm lợi. Đó là tình hình vài năm trước đây.
Mỹ từng muốn chia sẻ trách nhiệm gìn giữ an ninh ở eo biển Đài Loan với Nhật Bản. Tuy vậy, Tokyo cố gắng cân bằng mối quan hệ thương mại với Bắc Kinh và mối quan hệ đồng minh chiến lược với Washington, vì vậy thái độ của Tokyo với Đài Bắc thông thường không rõ ràng. Nhưng nay, sự cân bằng đó đã bị phá vỡ với sự hung hăng ngày càng tăng của chính quyền Trung Nam Hải, đe dọa nghiêm trọng đến an ninh hàng hải khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương và đặc biệt là ở eo biển Đài Loan, nơi gắn chặt với lợi ích của Nhật Bản. Ai đồng minh, ai kẻ địch, với Nhật Bản đã khá rõ ràng.
Thứ nhất, hơn 80% tàu chở dầu và chở hàng của Nhật Bản phải đi qua eo biển Đài Loan. Vì vậy, nếu Trung Quốc chiếm được hòn đảo này, đó sẽ là một uy hiếp cực lớn đến huyết mạch kinh tế của Nhật Bản.

Hơn 80% tàu chở dầu và chở hàng của Nhật Bản phải đi qua eo biển Đài Loan. Vì vậy, nếu Trung Quốc chiếm được hòn đảo này, đó sẽ là một uy hiếp cực lớn đến huyết mạch kinh tế của Nhật Bản.
Thứ hai, quần đảo Okinawa và đảo Ryukyu của Nhật cùng nằm trên chuỗi đảo thứ nhất với Đài Loan, vậy nên Đài Loan có mối quan hệ “môi hở răng lạnh” với an ninh hàng hải của Nhật Bản. Nếu chiếm được Đài Loan, Trung Quốc có thể bành trướng sức mạnh hải quân ra Thái Bình Dương, càng khiến Nhật Bản bị uy hiếp. Điều này lý giải cho phát ngôn của ngài thứ trưởng Quốc phòng Nhật đó là: Nhật Bản – Đài Loan giống như mũi và miệng trên một thân thể.
Thứ ba, Trung Quốc luôn tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Senkaku, mà phía Trung Quốc gọi là Điếu Ngư. Hai bên đã tranh chấp với nhau nhiều năm về quần đảo này.
Thứ tư, thị trường Trung Quốc tuy màu mỡ, nhưng đó đã là câu chuyện của quá khứ. Ngày nay, nó đầy bất ổn.
Quốc gia đại sự không phải là mối quan hệ cá nhân, nên có thể chấp nhận quan điểm của thủ tướng Palmerston. Tuy vậy, nếu bên cạnh quan hệ lợi hại, đồng minh lại chia sẻ những giá trị tinh thần khác thì mối quan hệ đồng minh sẽ càng thêm khăng khít. Điều này lý giải về quan hệ “hơn cả bạn bè, như một gia đình”, hay là “cùng chung giá trị phổ quát với Nhật Bản về tự do, dân chủ, nhân quyền” mà các quan chức Nhật Bản đã dành để nói về Đài Loan. Quá khứ đã cho chúng ta những manh mối để lý giải những nhận xét này.
Nhật Bản – Đài Loan: mối duyên nợ mấy thế kỷ
Đài Loan, từ người hàng xóm thờ ơ trở thành thuộc quốc của Nhật Bản
Nhật Bản bắt đầu biết đến đảo Đài Loan từ trước thời kỳ Mạc Phủ Tokugawa (Thời kỳ Edo 1603-1867) nhưng đến thời kỳ này mới bắt đầu có sự qua lại chính thức, song chưa được bao lâu thì năm 1639 Nhật Bản thi hành chính sách “Tỏa quốc”, tức là đóng cửa gần như không giao thiệp với ngoại quốc, cho mãi tới năm 1853.
“Tỏa quốc” như một giấc ngủ kéo dài hơn hai trăm năm của xứ sở Phù Tang. Đến khi Nhật Bản thực sự vươn mình thức dậy vào năm 1868 thời Minh Trị Duy Tân, thì Đài Loan đã qua tay mấy đời chủ, từ thực dân Hà Lan, đến họ Trịnh của Trịnh Thành Công, rồi đến thời điểm đó là vương triều Đại Thanh.
Năm 1874, lấy cớ trả đũa cho sự kiện Lưu Cầu năm 1871, một sự kiện mà thủy thủ của Lưu Cầu (hay Ryuku thuộc Nhật Bản) bị thổ dân Đài Loan giết hại, Nhật Bản tiến hành chiến dịch “chinh Đài”. Chiến dịch đã kết thúc nhờ giải pháp ngoại giao giữa Đại Thanh và Nhật Bản, lý do chính là vì Nhật Bản thấy mình chưa đủ sức khuất phục Đại Thanh.
Thời cơ đã đến khi Đế quốc Nhật Bản trở nên cường thịnh hơn sau cuộc cải cách Minh Trị Duy Tân, chiến thắng hải quân nhà Thanh trong cuộc chiến tranh Giáp Ngọ (1894-1895). Hai bên ký kết Hiệp ước Shimonoseki (Hay Hiệp ước Mã Quan), Đài Loan và Bành Hồ chính thức trở thành đất của người Nhật vào năm 1895.

Thời cơ đã đến khi Đế quốc Nhật Bản trở nên cường thịnh hơn sau cuộc cải cách Minh Trị Duy Tân, chiến thắng hải quân nhà Thanh trong cuộc chiến tranh Giáp Ngọ (1894-1895). (Tranh miêu tả hải chiến giữa quân Thanh và quân Nhật/ Miền công cộng)
Đài Loan – Nhật Bản trong 50 năm quan hệ thuộc địa và mẫu quốc (1895 – 1945)
Trong khoảng từ 1895 -1915 đã xảy ra các cuộc kháng chiến của người Đài Loan, có cả người Hán và thổ dân, và đều bị dập tắt, nhưng ý chí kiên cường của người địa phương, nhất là của thổ dân Đài Loan, khiến cho người Nhật phải nể phục. Bộ phim sử thi bi tráng “Warriors of the Rainbow: Seediq Bale (Chiến binh cầu vồng)” của đạo diễn Đài Loan Ngụy Đức Thánh đã lột tả tinh thần của những cuộc chiến hào hùng đó.
Từ sau năm 1915, chính phủ Nhật thay đổi cách tiếp cận cứng rắn với hòn đảo, vì vậy đã gần như không còn các cuộc chống đối. Người Nhật dự tính sẽ xây dựng ở Đài Loan một thuộc địa kiểu mẫu, xây dựng cơ sở hạ tầng, nền kinh tế, các ngành công nghiệp, phát triển giáo dục văn hóa… có tư tưởng đồng hóa địa phương bằng văn hóa Nhật Bản để rồi cuối cùng sẽ đối đãi với Đài Loan giống như các hòn đảo ở quê nhà. Đến những năm thế chiến 2 từ 1937 đến 1945, người Nhật còn cho phép người Đài Loan địa phương được tham gia tranh cử và điều hành chính quyền, rồi đi lính v.v. gần như một công dân Nhật Bản.
Thế chiến 2 kết thúc với chiến thắng thuộc về quân Đồng Minh và Nhật Bản là bên chiến bại, dưới áp lực của Mỹ, Nhật phải trao trả Đài Loan cho đại diện của Trung Hoa lúc ấy là chính quyền Trung Hoa Dân Quốc của Chủ tịch Chính phủ Quốc dân Tưởng Giới Thạch.

Ngày 25 tháng 10 năm 1945 tại Đài Bắc, Tổng đốc Đài Loan Andō Rikichi và Tướng quân Trần Nghi tiến hành thủ tục bàn giao Đài Loan. (Ảnh: Phạm vi công cộng)
Đài Loan – bạn bè và ân nhân của Nhật Bản trong giai đoạn 1945 – 1972
Ngày 25/10/1946, kỷ niệm một năm ngày Đài Loan được trả về Trung Hoa, lần đầu tiên Tưởng công đặt chân lên hòn đảo này, được chào đón nồng nhiệt bởi nhân dân nơi đây. Ấn tượng chính của ông lúc đó là hòn đảo mang phong cách văn hóa Nhật rất đậm nét, nhưng không đáng lo ngại, điều đáng mừng là hòn đảo không có bất cứ một dấu hiệu nào của Trung cộng, có thể dùng làm cơ sở để xây dựng một tỉnh kiểu mẫu đầu tiên của cả nước. Lúc này ở Trung Nguyên đã nổ ra cuộc nội chiến Quốc – Cộng lần 2. Thật éo le, Đài Loan sau đó không phải tỉnh kiểu mẫu đầu tiên mà lại là mảnh đất cuối cùng của Trung Hoa Dân Quốc. Nhưng Nhật Bản được dự tính là một đồng minh quan trọng của nó.
Tháng 10 năm 1945 ngay sau khi Thế chiến 2 kết thúc, Chủ tịch Chính phủ Quốc dân Tưởng Giới Thạch đã nói rằng “vận mệnh của Thiên hoàng Nhật Bản cần do nhân dân Nhật Bản quyết định” (2). Mặc dù là bên chiến thắng và chịu nhiều tổn thất vì đế quốc Nhật, ông chủ trương không can thiệp vào nội tình Nhật Bản.

Chủ tịch Chính phủ Quốc dân Tưởng Giới Thạch đã nói rằng “vận mệnh của Thiên hoàng Nhật Bản cần do nhân dân Nhật Bản quyết định” (2). Mặc dù là bên chiến thắng và chịu nhiều tổn thất vì đế quốc Nhật, ông chủ trương không can thiệp vào nội tình Nhật Bản. (Ảnh: Chân dung ông Tưởng Giới Thạch)/ Miền công cộng
Ngày 11/6/1950, Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch có chỉ ra rằng “hai nước Trung-Nhật nhất định phải hợp tác thân thiết hoà thuận, mới có thể đạt đến mục đích cùng tồn tại cùng phồn vinh” (2). Tưởng công cũng phát biểu rằng, “không có ai kháng Nhật sớm như ông, hy sinh nặng nề hơn, cống hiến lớn hơn… nhưng về hoà ước với Nhật nếu như không có cách nào tham gia, không chỉ không công bằng với mình, mà còn khiến hoà ước với Nhật mất đi tính chân thực, đồng thời làm trầm trọng thêm thế cục hỗn loạn tại Viễn Đông, không tiếp nhận bất kỳ điều kiện kỳ thị nào” (3).
“Hòa ước San Francisco” năm 1951 được ký kết tại Hoa Kỳ chính thức chấm dứt Thế chiến 2, kết thúc địa vị cường quốc của Nhật Bản và cũng bắt Nhật Bản phải bồi thường chiến tranh cho các quốc gia phe Đồng Minh. Do không xác định được đại diện của Trung Quốc như một bên tham gia Hòa ước, nên cả Trung Hoa Dân Quốc lẫn Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (PRC) đều không có mặt trong văn kiện này.
Bởi vậy, đến năm 1952, Nhật Bản ký riêng với Trung Hoa Dân Quốc (tức Đài Loan sau này) bản “Điều ước hòa bình Trung – Nhật” tại Đài Bắc với các điều khoản tương tự như trong “Hòa ước San Francisco”, khác biệt ở chỗ ngoài việc chính thức trao trả lãnh thổ Đài Loan, Bành Hồ cho chính quyền Trung Hoa Dân Quốc, thì chính quyền này của Tổng thống Tưởng Giới Thạch không đòi hỏi Nhật Bản phải bồi thường chiến tranh.
Tổng thống Tưởng Giới Thạch luôn được Nhật Bản nhớ đến như một ân nhân có tấm lòng quảng đại vì ở thời điểm quan trọng, ông đã có tiếng nói tôn trọng quyền tự quyết của người Nhật sau cuộc chiến, giúp bảo tồn chính thể của Nhật Bản, không đòi hỏi bồi thường và luôn chủ trương không kỳ thị với Nhật Bản. Từ Nhật Hoàng Hirohito đến hầu hết các đời thủ tướng, lãnh đạo cấp cao của Nhật Bản đều thay mặt nhân dân Nhật Bản thể hiện lòng biết ơn đối với Tổng thống Tưởng Giới Thạch về chính sách khoan dung “lấy đức báo oán” với Nhật.
“Tháng 12/1967, Hơn 15.000 người Nhật Bản tại Tokyo tiến hành đại hội cảm tạ Tưởng Giới Thạch” (4). “Tháng 9 năm 1986, nhằm kỷ niệm 100 năm sinh nhật Tưởng Giới Thạch, một nhóm chính khách kỳ cựu và lãnh đạo công thương Nhật Bản do cựu Thủ tướng Kishi Nobusuke đứng đầu phát động thành lập “Tưởng công di đức hiến chương hội” tại Tokyo, Nhật Bản, thành viên ban đầu lên tới hơn 6.000 người. Hạ tuần tháng 10, hội cử hành đại hội kỷ niệm lần thứ nhất tại Nagoya, có nhiều nhân vật cao cấp tham dự” (5).
Thực tế là Tưởng công đã trở thành biểu tượng quan hệ hữu hảo giữa Nhật Bản – Đài Loan.

Tổng thống Thái Anh Văn tiếp nghị viên Hạ viện Nhật Bản Keiji Furuya tại Đài Loan. (Ảnh: Wikimedia Commons)
Tuy vậy, trong lúc đó những nhân vật cánh tả trong chính giới Nhật Bản vẫn “đi lại” với Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, và khi họ lên nắm quyền thì ưu tiên mối quan hệ với PRC, thêm vào đó là vấn đề lợi ích kinh tế, sự thèm muốn thị trường Hoa lục… dẫn đến bất đồng có tính giai đoạn trong quan hệ Trung Hoa Dân Quốc – Nhật Bản. Đỉnh điểm của nó là sự kiện đoạn tuyệt quan hệ ngoại giao hai bên vào năm 1972 khi thủ tướng thân Trung Hoa Dân Quốc là Satō Eisaku nghỉ hưu, thay thế vào đó là thủ tướng thân PRC là Tanaka Kakuei. Chớp lấy cơ hội này, Thủ tướng của PRC là Chu Ân Lai đã đề nghị Trung Quốc – Nhật Bản cấp tốc thiết lập quan hệ ngoại giao. Tháng 9/1972, thủ tướng Tanaka sang thăm Trung Quốc, ký kết “Tuyên bố chung Trung – Nhật”, công nhận chính sách “một Trung Quốc” và vai trò đại diện của PRC, chính là thỏa thuận ngoại giao mà Thứ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Yasuhide Nakayama đang yêu cầu phải xem xét lại.
Tanaka còn được “tặng kèm” lời cảm ơn của Mao Trạch Đông về cuộc xâm lược của Nhật Bản – cuộc xâm lược lấy đi nhiều máu của nhân dân Trung Hoa nhưng lại đem đến cơ hội cướp được chính quyền cho phe đảng của Mao như ta đã biết.
Dường như mấy câu thơ trong bài “Thường Bình trạm cảm ngâm” của Tưởng công vẫn đeo đuổi số mệnh gian nan của ông và của cả Đài Loan đến lúc này:
“Thân suất tam thiên tử đệ binh,
Si hào vị tĩnh thử đông chinh.
Gian nan cách mệnh thành cô phẫn
Huy kiếm trường không thế lệ hoành”
Tạm dịch:
“Đông chinh, tử đệ ba ngàn người,
Bởi lũ cáo cầy loạn chửa thôi.
Gian nan cách mạng thành cô phẫn
Vung kiếm lên không gạt lệ đời”
Từ 1972 đến nay, từ đối tác giấu diếm đến đồng minh công khai
Sự đoạn tuyệt quan hệ ngoại giao chính thức giữa hai bên không phải không có nhiều tiếc nuối. Tuy vậy, những hoạt động giao lưu kinh tế vẫn diễn ra. Người Nhật Bản sau đó nhiều lần bày tỏ họ vĩnh viễn không quên tấm lòng của Tưởng Giới Thạch đối với Nhật sau Thế chiến 2, điều giúp Nhật Bản đẩy nhanh tốc độ tái thiết. Các đời Tổng thống sau này của Đài Loan như Nghiêm Gia Cam, Tưởng Kinh Quốc, Lý Đăng Huy, Trần Thủy Biển v.v. đều đẩy mạnh các hoạt động hợp tác kinh tế, giao lưu văn hóa giữa hai nước.

Người Nhật Bản sau đó nhiều lần bày tỏ họ vĩnh viễn không quên tấm lòng của Tưởng Giới Thạch đối với Nhật sau Thế chiến 2, điều giúp Nhật Bản đẩy nhanh tốc độ tái thiết. (Ảnh: Tổng hợp)
Năm 1996 xảy ra cuộc khủng hoảng hỏa tiễn ở eo biển Đài Loan khiến Hoa Kỳ điều chiến hạm vào để đe dọa Trung Quốc, Nhật Bản cũng bày tỏ sự lo ngại, đề xuất với Trung Quốc lập trường “đối thoại trực tiếp và giải quyết vấn đề hoà bình”.
Trừ việc công nhận Đài Loan như một quốc gia có thể gây căng thẳng ngoại giao với Trung Quốc, Nhật Bản chủ trương một mối quan hệ thân mật không chính thức với Đài Loan. Sau trận động đất ngày 21 tháng 9 năm 1999 tại Đài Loan, chính phủ và dân chúng Nhật Bản tích cực viện trợ Đài Loan cứu trợ thiên tai. Đến năm 2011 khi Nhật Bản xảy ra động đất sóng thần dẫn đến thảm họa Fukushima, Đài Loan lại phản ứng nhanh nhất, có số tiền viện trợ cho Nhật Bản nhiều nhất.
Mới đây, Nhật Bản cũng đã viện trợ cho Đài Loan 12 triệu liều vaccine Astrazeneca bất chấp sự phản đối của Trung Quốc, cũng như ngay lập tức tiêu thụ dứa Đài Loan sau khi Trung Quốc dở trò cấm nhập mặt hàng này.
Các thế hệ lãnh đạo chính quyền Nhật Bản có nhiều người đi thăm Đài Loan sau khi rời nhiệm sở, bày tỏ một sự ủng hộ kín đáo nhưng sâu sắc của Nhật Bản dành cho Đài Loan. Đơn cử như chuyến thăm của hai cựu thủ tướng Abe Shinzō và Asō Tarō năm 2013 biểu thị Nhật Bản và Đài Loan là bạn bè có chung các giá trị về tự do dân chủ, nhân quyền cơ bản và xã hội pháp trị, hình thành quan hệ Đài – Nhật mật thiết như hiện tại.
Đến hôm nay, khi Trung Quốc bộc lộ dã tâm không cần che dấu, Nhật Bản dẫu vẫn thận trọng nhưng đã xác định lập trường rõ ràng ai bạn ai thù. Và Nhật Bản cũng không cần che dấu nữa, đã gọi thẳng Đài Loan là một “quốc gia”.
Nhật Bản – Đài Loan, hơn cả một mối quan hệ lợi hại
Ai cũng có thể nhìn thấy ngay rằng, Nhật Bản quan hệ với Trung Quốc chủ yếu là vì lý do kinh tế. Về phương diện giá trị tinh thần, Nhật Bản là một quốc gia dân chủ, tôn trọng tự do, nhân quyền, pháp trị… chắc chắn không thể chia sẻ những giá trị tinh thần với một chính thể độc tài ngạo ngược như Trung Quốc.
Trên phương diện ấy, Nhật Bản lại gần gũi hơn nhiều với Đài Loan – một xứ cũng tự do, dân chủ, pháp trị… lạ từng là đất cũ, lưu giữ văn hóa xưa của người Nhật trong mối quan hệ kéo dài hàng thế kỷ.
Nhưng chắc hẳn có điều này ít ai để ý, trong khi chính quyền Đại lục vong bản đã phủ nhận tổ tiên mình, thì Đài Loan lại là nơi lưu giữ, bảo tồn và phục hưng những giá trị văn hóa Thần truyền Trung Hoa. Nhưng đấy cũng là nguồn gốc văn hóa của xã hội Nhật Bản, một đất nước tiếp thu được rất nhiều ảnh hưởng tốt của văn hóa Thần truyền Trung Hoa từ thời kỳ Đại Đường, và sau đó là thời nhà Minh. Điều này lý giải cho những phát biểu của các chính khách và lãnh đạo quân đội Nhật Bản về quan hệ “hơn cả bạn bè, như một gia đình”, hay là “cùng chung giá trị phổ quát với Nhật Bản về tự do, dân chủ, nhân quyền”.
Nước Mỹ thì xa, Nhật Bản lại gần. Nếu có Nhật Bản sát cánh, Đài Loan sẽ có thuận lợi gì? Chắc chắn không thể bỏ qua không xét đến ân oán truyền kiếp giữa hai đối thủ Trung Hoa – Nhật Bản, trong đó Nhật Bản luôn được coi như một khắc tinh của Trung Hoa hàng trăm năm nay.
Đó sẽ là nội dung kỳ cuối cùng của loạt bài.
(Bài viết chỉ thể hiện quan điểm của tác giả, không nhất thiết là quan điểm của trang NTDVN)
Nguyên Vũ
Chú thích:
(1), (3), (4), (5): Theo cuốn “Thời đại Tưởng Giới Thạch” của Nhà xuất bản tiểu sử Đài Bắc
(2): Theo tập 23 cuốn “Chủ tịch Tưởng công – suy nghĩ và phát ngôn”
(5): “Taiwan TV News in Nagoya, Japan, để kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Tưởng Giới Thạch” – Thư viện quốc gia Đài Bắc
Nguyên Vũ