Trang chủ :: Tin tức - Sự kiện :: Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca :: Bản sắc Việt :: Văn hóa - Giải trí :: Khoa học kỹ thuật :: Góc thư giãn :: Web links :: Vietnam News in English :: Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng :: Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP :: Liên hệ
     Các chuyên mục 

Tin tức - Sự kiện
» Tin quốc tế
» Tin Việt Nam
» Cộng đồng VN hải ngoại
» Cộng đồng VN tại Canada
» Khu phố VN Montréal
» Kinh tế Tài chánh
» Y Khoa, Sinh lý, Dinh Dưỡng
» Canh nông
» Thể thao - Võ thuật
» Rao vặt - Việc làm

Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca
» Cần mời nhiều thương gia VN từ khắp hoàn cầu để phát triễn khu phố VN Montréal

Bản sắc Việt
» Lịch sử - Văn hóa
» Kết bạn, tìm người
» Phụ Nữ, Thẩm Mỹ, Gia Chánh
» Cải thiện dân tộc
» Phong trào Thịnh Vượng, Kinh Doanh
» Du Lịch, Thắng Cảnh
» Du học, Di trú Canada,USA...
» Cứu trợ nhân đạo
» Gỡ rối tơ lòng
» Chat

Văn hóa - Giải trí
» Thơ & Ngâm Thơ
» Nhạc
» Truyện ngắn
» Học Anh Văn phương pháp mới Tân Văn
» TV VN và thế giới
» Tự học khiêu vũ bằng video
» Giáo dục

Khoa học kỹ thuật
» Website VN trên thế giói

Góc thư giãn
» Chuyện vui
» Chuyện lạ bốn phương
» Tử vi - Huyền Bí

Web links

Vietnam News in English
» Tự điển Dictionary
» OREC- Tố Chức Các Quốc Gia Xuất Cảng Gạo

Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng

Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP



     Xem bài theo ngày 
Tháng Năm 2025
T2T3T4T5T6T7CN
      1 2 3 4
5 6 7 8 9 10 11
12 13 14 15 16 17 18
19 20 21 22 23 24 25
26 27 28 29 30 31  
   

     Thống kê website 
 Trực tuyến: 7
 Lượt truy cập: 26864049

 
Tin tức - Sự kiện 17.05.2025 21:15
Chiến tranh Việt Nam chấm dứt 30-4-75 tưởng niệm nửa thế kỷ
26.04.2025 14:29

Chiến tranh Việt Nam: Bản tin cuối cùng dang dở từ Sài Gòn

Nhà báo, tác giả sách Nayan Chanda, người chứng kiến những biến động trong ngày 30/4/1975 khi Sài Gòn thất thủ, đánh dấu sự kết thúc Chiến tranh Việt Nam

Nguồn hình ảnh,NayanChanda/GettyImages/BBC

Chụp lại hình ảnh,Nhà báo, tác giả sách Nayan Chanda đã chứng kiến những biến động trong ngày 30/4/1975 khi Sài Gòn thất thủ, đánh dấu sự kết thúc Chiến tranh Việt Nam

Là phóng viên thường trú của Far Eastern Economic Review (Tạp chí Viễn đông kinh tế)nhà báo Nayan Chanda được cử đến Sài Gòn từ năm 1974 và ông đã tận mắt chứng kiến khoảnh khắc Sài Gòn sụp đổ.

"Khi chiếc trực thăng cuối cùng cất cánh khỏi Sài Gòn trong Chiến dịch Gió lốc để sơ tán người Mỹ, khi chiếc xe tăng húc đổ cổng Dinh Độc Lập và khi những người lính được gọi là 'bộ đội' tràn vào thành phố... Hàng loạt diễn biến quan trọng đã ập đến trong buổi sáng ấy," ông chia sẻ với BBC News Tiếng Việt vào ngày 23/4.

Vào sáng sớm ngày 30/4/1975, Chanda ở trong căn hộ của mình trên đường Tự Do (nay là đường Đồng Khởi) và qua một thiết bị thu tín hiệu nội bộ của Đại sứ quán Mỹ, ông có thể nghe được các cuộc liên lạc và biết được Đại sứ Mỹ vừa rời đi. 

Khi hay tin Đại sứ Graham Martin đã lên bãi đáp trực thăng, phóng viên trẻ Chanda hiểu rằng điều đó có nghĩa là chiến tranh sắp kết thúc.

"Tuy nhiên, phải mất thêm hai tiếng sau mọi thứ mới rõ ràng," nhà báo Chanda nói với BBC News Tiếng Việt ngày 23/4.

Sau chiến tranh, ông Nayan Chanda tiếp tục nghiên cứu về Việt Nam và ông đã viết sách Brother Enemy (tạm dịch: Huynh đệ tương tàn) nói về thời hậu chiến và các cuộc xung đột giữa Việt Nam với Trung Quốc, Campuchia Dân chủ (Khmer Đỏ).

'Chiến tranh Việt Nam kết thúc lúc 11 giờ 25'

Nhà báo Chanda vừa làm phóng sự cho Far Eastern Economic Review và vừa viết cho Reuters vì khi đó hãng tin này đã đưa phóng viên thường trú của họ rời khỏi Sài Gòn để bảo đảm an toàn.

Vào ngày 25/4/1975, biên tập của ông ở Hong Kong đã thuyết phục ông rời đi và nói rằng "không có câu chuyện nào đáng giá hơn mạng sống cả", nhưng Chanda đã kiên quyết ở lại để chứng kiến hồi kết của cuộc chiến.

Cái nóng hầm hập của Sài Gòn tháng Tư dường như đổ lửa lên những mặt người chen lấn trước cổng Đại sứ quán Mỹ. Nhiều người cố leo rào vào, la hét ỏm tỏi cùng tiếng rầm rập của trực thăng tạo nên cảnh tượng hỗn loạn, gấp rút.

"Tôi đã có mặt ở đó khi chiếc trực thăng cuối cùng cất cánh từ mái của tòa Đại sứ Mỹ.

"Khi hàng trăm người Việt đang chen lấn cố trèo vào bên trong thì những người lính thủy đánh bộ gác cổng đã thôi không canh giữ đám đông mà phóng vào trong tòa nhà, ném lựu đạn cay xuống để họ có thể chạy lên mái nhà mà không bị cản lại."

"Đó chính là dấu hiệu cho thấy đây là chiếc trực thăng cuối cùng. Và nó đã cất cánh."

Sau khi chiếc trực thăng cuối cùng rời đi, đám đông đã phá cổng và tràn vào tòa đại sứ. Chanda cũng theo dòng người tiến vào trong và ông chứng kiến họ đập phá, cướp bóc những gì còn sót lại.

"Những người Việt Nam làm việc cho Mỹ rất tức giận vì đã không thể rời đi theo."

Ảnh trái: Những người miền Nam Việt Nam tuyệt vọng trèo lên các sà lan tại cảng Sài Gòn trong nỗ lực trốn thoát khỏi quân đội miền Bắc đang tiến vào, vào ngày Sài Gòn thất thủ.  Ảnh phải: Lính thủy đánh bộ Mỹ đuổi hai người đàn ông Việt Nam đang cố trèo qua hàng rào dây kẽm gai để vào Đại sứ quán Mỹ, trong ngày cuối cùng của sự can dự của Mỹ vào Chiến tranh Việt Nam, tháng 4 năm 1975, ngày Sài Gòn thất thủ.

Nguồn hình ảnh,Nik Wheeler/Corbis/Getty Images

Chụp lại hình ảnh,Ảnh trái: Những người miền Nam Việt Nam tuyệt vọng trèo lên sà lan tại cảng Sài Gòn trong nỗ lực trốn thoát khỏi quân đội miền Bắc đang tiến vào trong ngày Sài Gòn thất thủ 30/4/1975. Ảnh phải: Thủy quân lục chiến Mỹ đuổi hai người đàn ông Việt Nam đang cố trèo qua hàng rào dây kẽm gai để vào Đại sứ quán Mỹ trong những giây phút cuối cùng của cuộc chiến.
Dân thường được sơ tán lên trực thăng của Thủy quân lục chiến Mỹ bên trong khuôn viên Đại sứ quán Mỹ để được không vận ra Hạm đội 7 của Mỹ, trước khi quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn trong ngày cuối cùng của Chiến tranh Việt Nam, 30 tháng 4 năm 1975.

Nguồn hình ảnh,Nik Wheeler/Corbis/Getty Images

Chụp lại hình ảnh,Dân thường được sơ tán lên trực thăng của Thủy quân lục chiến Mỹ bên trong khuôn viên Đại sứ quán Mỹ để được không vận ra Hạm đội 7 của Mỹ, trước khi quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn trong ngày cuối cùng của Chiến tranh Việt Nam, 30 tháng 4 năm 1975.

Nhà báo Chanda kể lại, trong số tài sản bị bỏ lại của Đại sứ quán, có một khung tranh treo tường ghi lại lời câu nói của nhà ngoại giao, nhà khảo cổ và sĩ quan quân đội Anh Thomas Edward Lawrence - dùng để nói về quyền tự quyết của thế giới Ả Rập. Câu nói đã phơi bày sự trớ trêu và cay đắng của khoảnh khắc đó:

"Hãy để yên cho họ cai quản dù không hoàn hảo còn hơn là tự tay ta cai trị hoàn hảo. Vì đây là đất nước họ, cuộc chiến của họ, và đời ta thì ngắn ngủi."

Sau khi chứng kiến những gì đang xảy ra trong tòa đại sứ, Chanda quay trở lại văn phòng của Reuters và bắt đầu viết bài về những gì đang diễn ra.

Ông bắt đầu nhận được các cuộc gọi từ nguồn tin của mình ở vùng ven, tại Gia Định và Chợ Lớn, kể lại rằng người dân đã bắt đầu treo lá cờ của Mặt trận Giải phóng.

"Rõ ràng là họ đã giấu những lá cờ đâu đó và giờ thì treo chúng lên nóc nhà, như một dấu hiệu cho thấy không còn sợ hãi hậu quả," Chanda nói.

Và rồi khi đang ngồi gõ bản tin để gửi đi thì ông nghe một âm thanh rất lớn vọng vào, đó là chiếc xe tăng với lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đang lao nhanh về phía cổng Dinh Độc lập.

"Tôi không thể tin nổi là xe tăng đã áp sát. Với chiếc máy ảnh quấn quanh cổ, tôi lao theo chiếc xe tăng và cố vẫy tay, ý nói mình là nhà báo và những người lính vẫy tay đáp lại. Tôi vội quay lại văn phòng để gửi một tin nhanh cho Reuters:

'Chiến tranh Việt Nam kết thúc vào lúc 11 giờ 25 phút sáng nay'."

Bức ảnh chụp ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại Sài Gòn cho thấy chiếc xe tăng của Quân đội Nhân dân Việt Nam húc đổ cổng Dinh Độc Lập - thành trì cuối cùng của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa

Nguồn hình ảnh,VNA/AFP/Getty Images

Chụp lại hình ảnh,Bức ảnh chụp trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại Sài Gòn cho thấy chiếc xe tăng tiến vào Dinh Độc lập - cơ quan đầu não của Việt Nam Cộng hòa.

Cuộc chuyển giao không đổ máu

Sau đó, trong khi nhà báo Chanda gửi tin cho tạp chí Far Eastern Economic Review thì đường truyền bị mất tín hiệu. Chính quyền mới đã ngắt kết nối nên tờ báo của ông Chanda chỉ nhận được bốn năm đoạn trong bản tin mà ông gửi về và họ đã đăng tất cả lên trang nhất với nhan đề: "Những dòng cuối cùng từ Sài Gòn".

"Đó là cách tôi bắt đầu ngày 30/4."

Chanda đi vòng thành phố để xem chuyện gì đang diễn ra và ông thấy nhiều binh sĩ Việt Nam Cộng hòa bỏ chạy vì sợ bị bắt. Họ vừa chạy vừa cởi bỏ quân phục, vứt bỏ vũ khí và được người dân ném cho áo quần xuống từ ban công để mặc tạm.

Trong khoảng hai giờ đầu tiên, đường sá vẫn còn vắng lặng, người dân đều ở yên trong nhà. Sự im ắng đó không phải báo hiệu cho một cuộc sát phạt mà là âm thanh của hòa bình.

Rồi khi bớt đi sợ hãi, người dân bắt đầu đổ ra đường và chừng đến buổi chiều, công viên đối diện Dinh Độc lập và cũng gần văn phòng Reuters dường như đã biến thành hội chợ với đám đông tụ họp.

"Quân Giải phóng ngồi nghỉ bên cạnh xe tăng, thiết giáp của họ và tôi thấy người dân đến gần, gãi gãi đầu bắt chuyện, hỏi han những câu thường tình như: Anh ở đâu đến; Khẩu súng này dài quá, bắn xa bao nhiêu mét?..."

Những người lính mà mọi người gọi là "bộ đội" khi đó chẳng khác gì những hướng dẫn viên tận tình giới thiệu hệ thống vũ khí cho người dân Sài Gòn.

Hình ảnh người lính Bắc Việt trò chuyện với người dân Sài Gòn sau khi Sài Gòn thất thủ

Nguồn hình ảnh,Jean-Claude LABBE/Gamma-Rapho/Getty Images)

Chụp lại hình ảnh,Hình ảnh người lính Bắc Việt trò chuyện với người dân sau khi Sài Gòn thất thủ.
Quân đội miền Bắc tiến vào Sài Gòn bằng xe tăng và xe tải, chính thức kết thúc Chiến tranh Việt Nam

Nguồn hình ảnh,Jacques Pavlovsky/Sygma/CORBIS/Sygma/Getty Images

Chụp lại hình ảnh,Quân đội cộng sản tiến vào Sài Gòn bằng xe tăng và xe tải, chính thức kết thúc Chiến tranh Việt Nam.

"Thật khó mà tin là chỉ vài giờ trước, cả thành phố còn chìm trong nỗi sợ rằng cộng sản sắp tràn vào, và rằng có thể sẽ có một màn máu đổ đầu rơi, có thể cộng sản sẽ pháo kích thành phố. Chúng tôi thật chẳng lường được điều gì sẽ xảy ra," nhà báo Chanda, nay đã gần 80 tuổi, kể lại.

Sài Gòn lúc đó từ trạng thái lo âu tột độ chuyển sang một sự nhẹ nhõm vì hầu hết người dân đều cảm thấy cuối cùng thì chiến tranh cũng đã chấm dứt, không còn tiếng súng, không có giao tranh ác liệt nổ ra trong thành phố.

Đã có những bóng ma cộng sản gieo vào trí óc của những người dân Sài Gòn lúc bấy giờ trước thời điểm quân giải phóng tràn vào. Ông Chanda kể:

"Một cô gái làm ở quán bar kể với tôi rằng họ nghe đâu cộng sản sẽ rút móng tay màu mè của họ và đầy những lời đồn đại như thế. Sau đó các cô gái đã hỏi những người lính rằng 'bộ các anh định rút móng tay chúng tôi sao' thì các anh lính ngơ ngác, ngạc nhiên trước câu hỏi đó."

"Rồi chừng một, hai ngày sau, những cô gái làm ở quán bar từng thay sẵn áo bà ba để chuẩn bị cho sự xuất hiện của những người lính cộng sản đã nhanh chóng trở lại bận những chiếc quần jean, váy ngắn vốn có của mình. Họ không còn sợ cộng sản như lúc đầu nữa, thậm chí họ còn bắt đầu tìm cách bán đồ cho những người lính."

"Ví dụ, tôi thấy có người đem một chiếc đồng hồ, nhúng vào ly nước để chứng minh rằng kim đồng hồ vẫn quay dù bị ngập trong nước khiến các anh bộ đội há hốc mồm ngạc nhiên và rồi cố bán chiếc đồng hồ với giá thật cao."

"Đó là một kiểu buôn bán khôn khéo rất đặc trưng của Sài Gòn, việc đó xảy ra chỉ vài giờ khi những người lính bụi bặm tiến vào thành phố."

Bức ảnh chụp vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 cho thấy hình ảnh một người lính Cộng sản tại Dinh Độc Lập ở Sài Gòn, đánh dấu sự sụp đổ của chế độ miền Nam do Hoa Kỳ hậu thuẫn

Nguồn hình ảnh,NAYAN CHANDA/Getty Images

Chụp lại hình ảnh,Bức ảnh được nhà báo Nayan Chanda chụp vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 cho thấy hình ảnh người lính cộng sản tại Dinh Độc lập ở Sài Gòn.

Thời điểm xe tăng húc cổng Dinh Độc lập, sau khi đã bắn tin cho Reuters và tạp chí Far Eastern Economic Review, Chanda đi vào bên trong Dinh và những điều sau đó ông chứng kiến đã luôn ở trong ký ức ông suốt 50 năm.

Chanda bước lên tầng lửng nơi có tấm thảm tròn lớn màu đỏ đậm với hình con rồng vàng ở giữa. Đây là nơi Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu thường đứng để tiếp khách.

Và chính tấm thảm đỏ đó, bây giờ có một vị khách mới: một người lính cộng sản trẻ tuổi.

"Chàng trai đó cởi chiếc dép lốp Cụ Hồ và cảm nhận tấm thảm bằng đôi chân trần của mình. Rõ ràng là cậu ta chưa từng có trải nghiệm nào như vậy - đặt chân trên một chiếc thảm mềm. Và nhìn cách cậu trai ấy khám phá dinh thự quả thật là một điều rất thú vị."

Và rồi có nhiều người lính khác đã chạy lên mái dinh để cắm lên lá cờ của Mặt trận Giải phóng và đứng trên ban công vẫy cờ.

Khi Chanda đi xuống cầu thang, ông nhìn thấy Đại tướng Dương Văn Minh đang ở dưới, xung quanh là những binh lính Bắc Việt.

"Sau đó vị đại tướng được hộ tống đến đài phát thanh, nơi ông đọc tuyên bố đầu hàng và chuyển giao quyền lực cho chính quyền mới."

Một điều khá bất ngờ, theo nhà báo Chanda, là trong suốt 7-8 ngày liền, Sài Gòn dường như cắt đứt liên lạc với thế giới bên ngoài: không thư từ, không cáp truyền, không điện tín.

Cánh phóng viên còn trụ lại Sài Gòn như Chanda đã hội lại với nhau cùng uống cà phê và gọi cả dâu tươi từ Đà Lạt để tráng miệng.

"Chúng tôi ngồi nghe đài sóng ngắn, trong khi thế giới ngoài kia đồn đoán rằng có thể đang xảy ra một cuộc tắm máu ở Sài Gòn. Chúng tôi nói đùa với nhau: 'Đây này, tụi này đang ăn dâu tây khi thiên hạ thì nghĩ ở đây có thảm sát'."

"Cảm giác ấy thật siêu thực," ông hồi tưởng.

Sài Gòn sụp đổ, những người lính Bắc Việt cầm cờ Mặt trận phất trên tầng của dinh tổng thống vào ngày 30/4/1975

Nguồn hình ảnh,Francoise De Mulder/Roger Viollet/Getty Images

Chụp lại hình ảnh,Sài Gòn sụp đổ, những người lính cộng sản cầm cờ Mặt trận phất trên tầng của dinh tổng thống vào ngày 30/4/1975.

Phạm Xuân Ẩn - Điệp Viên Hoàn Hảo Tình Báo CSBV

Vào thời điểm nhìn thấy những người lính cộng sản ngồi chồm hổm để nói chuyện với người dân Sài Gòn thì ông Chanda bắt gặp người bạn của mình - nhà báo Phạm Xuân Ẩn - người được săn đón nhất lúc bấy giờ vì là trưởng văn phòng của tạp chí Time. Ông Phạm Xuân Ẩn đang đứng trước Dinh Độc lập với một nụ cười đầy suy tư.
"Tôi đã rất ngạc nhiên vì nghĩ rằng ông ấy đã rời đi cùng các nhà báo khác trên trực thăng của Mỹ. Vì vậy tôi chạy lại hỏi:

'Anh còn ở đây à?'

Anh ấy chỉ cười rồi nói, 'Ừ, tôi bị lỡ chuyến bay mà.' Tôi hỏi tiếp: 'Còn gia đình anh thì sao?'

Anh trả lời, 'Họ đi được rồi.'

Tôi nói: 'Vậy thì tốt.'

"Nhưng tôi vẫn rất bất ngờ không rõ lý do vì sao ông ấy kẹt lại. Mãi đến vài năm sau tôi mới biết được sự thật: hóa ra ông ấy là một gián điệp cộng sản thuộc hàng cấp cao nhất ở trong lòng miền Nam, người trong nhiều thập kỷ đã cung cấp tin tình báo chiến lược cho Hà Nội."

"Mãi về sau, trong những buổi hàn huyên dài tại nhà ông ấy, nơi luôn đầy tiếng chim hót, ông ấy kể rằng mình đã tham gia cách mạng từ khi còn là một cậu học sinh trung học. Ông ấy muốn chiến đấu chống lại thực dân Pháp, muốn giải phóng đất nước khỏi ách thống trị của Pháp. Do đó, ông ấy gia nhập Đảng Cộng sản và thực ra, khi sang Mỹ du học, ông ấy vẫn đang hoạt động dưới sự chỉ đạo của Đảng. Và đó là nhiệm vụ được giao," ông Chanda kể.

Phạm Xuân Ẩn trên đường phố Sài Gòn trong ngày cuối cùng của chiến tranh, 30/4/1975

Nguồn hình ảnh,Từ sách Điệp viên Hoàn hảo

Chụp lại hình ảnh,Phạm Xuân Ẩn trên đường phố Sài Gòn trong ngày cuối cùng của chiến tranh, 30/4/1975.

Phạm Xuân Ẩn là một thiếu tướng tình báo, ông được phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân vào năm 1976. Tuy nhiên, suốt một thời gian dài sau chiến tranh, ông không còn được Hà Nội tin tưởng, bởi lẽ ông đã sống quá lâu trong lòng Việt Nam Cộng hòa, sống quá gần với người Mỹ.

Ông qua đời vào năm 2007 ở tuổi 80.

Đã có nhiều sách báo viết về cuộc đời ông Ẩn và đa phần tác giả Việt Nam lẫn nước ngoài đều đánh giá cao khả năng săn tin của ông Ẩn. Ông được xem là người Việt Nam "được phía Mỹ ưa chuộng nhất nhưng đã đánh lừa chính quyền Mỹ từ đầu đến cuối".

Trong trí nhớ của nhà báo Chanda, Phạm Xuân Ẩn không phải là một người quá đỗi huyền bí với những huyền thoại xoay quanh mà là một người đồng nghiệp, một người bạn ấm áp, hiếu khách mỗi khi ông đến chơi nhà.

"Ông ấy gần như mang dáng dấp của một triết gia - hiểu biết sâu rộng, đọc rất nhiều. Ẩn giúp đỡ tôi rất nhiều và tôi không biết vì sao, nhưng chắc chắn là ông ấy có thiện cảm với một chàng phóng viên trẻ người Ấn như tôi."

"Thời điểm đó, tôi chỉ là một trong hàng trăm nhà báo nước ngoài, là một trong số rất ít người Ấn và tôi nói được tiếng Pháp nên chúng tôi giao tiếp với nhau bằng tiếng Pháp. Giờ khi nhớ lại những gì chúng tôi nói với nhau, tôi nhận ra rằng ông ấy chưa bao giờ nói dối tôi điều gì, ông ấy luôn nói những điều ông ấy biết và có thể chia sẻ và tôi nghĩ đó là một điều đáng quý trọng nơi ông ấy," ông Chanda kể về điệp viên Phạm Xuân Ẩn.

Bức ảnh chụp vào tháng 4 năm 2005 cho thấy tướng quân đội nhân dân đã nghỉ hưu Phạm Xuân Ẩn tại nhà riêng ở TP. Hồ Chí Minh

Nguồn hình ảnh,Nicolas Cornet/AFP/Getty Images

Chụp lại hình ảnh,Bức ảnh chụp nhà báo, "điệp viên hoàn hảo" Phạm Xuân Ẩn vào tháng 4 năm 2005 tại nhà riêng ở của ông ở TP HCM

Trong cuộc phỏng vấn với BBC, nhà báo Nayan Chanda nói rằng đối với người bạn Phạm Xuân Ẩn của ông khi đó, kết thúc cuộc chiến nghĩa là có được một khởi đầu mới, và ông ấy không còn phải sống trong nỗi lo sợ, cảnh giác thường trực.

"Ẩn ấy rất tự hào về những gì mình đã làm cho đất nước. Và tất nhiên, ông ấy đã chấp nhận rủi ro vô cùng lớn. Mỗi ngày, ông ấy có thể bị phát hiện, bị tra tấn, thậm chí bị giết.

"Tôi rất nhớ ông ấy. Tôi cứ thường sống trong nỗi nhớ thương ấy. Vì Ẩn đã không còn ở đây nữa. Ông ấy là một người yêu nước. Ông ấy đã làm điều mà rất nhiều người yêu nước từng làm và sẽ tiếp tục làm," Chanda chia sẻ.

Khi thực hiện cuộc phỏng vấn này, nhà báo Nayan Chanda đang cùng vợ mình chuẩn bị lên đường bay đến Sài Gòn để dự lễ kỷ niệm 50 năm kết thúc chiến tranh do Bộ Ngoại giao Việt Nam mời.

Ông nói với BBC: "Tôi cảm thấy thật may mắn vì mình vẫn còn sống, rất nhiều đồng nghiệp, bạn bè tôi đã qua đời. Vì vậy, tôi rất mừng khi được trở lại Sài Gòn, dự lễ kỷ niệm cho một cột mốc lịch sử mà tôi từng chứng kiến 50 năm trước."

Vì sao tháng 4 vẫn là thời điểm làm người Việt nhức nhối?

Trân Văn

Lễ Tưởng Niệm Quốc Hận 30 Tháng Tư tại ...

Tại một sự kiện tưởng niệm biến cố 30 tháng Tư tại Little Saigon, California.

Tại một sự kiện tưởng niệm biến cố 30 tháng Tư tại Little Saigon, California.

Còn ba năm nữa là tròn 50 năm Việt Nam thống nhất về mặt địa lý nhưng thực tế cho thấy, thời gian không phải là yếu tố có thể tạo ra... đồng tâm.

Sắp hết tháng thứ tư của năm 2022 và dù sắp tròn 47 năm kể từ sự kiện 30/4/1975 nhưng tháng tư năm nay vẫn là thời điểm cho thấy sự kiện “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” không thống nhất được nhân tâm dù hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam không ngừng đề cao... “hòa hợp, hòa giải”...

Không chỉ ở hải ngoại, tại Việt Nam, nhờ Internet và thực trạng quốc gia trong 47 năm qua, đặc biệt là thời gian gần đây đã khiến nhận thức về sự kiện 30/4/1975 đang tiếp tục thay đổi cả trên diện rộng lẫn chiều sâu, ngược chiều với nỗ lực tuyên truyền về cuộc “kháng chiến chống Mỹ” nhằm... “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”!..

Ví dụ, Nguyễn Thiện góp ý về... “Ngụy”: Cách đây nhiều năm, báo Tuổi Trẻ đề nghị tôi viết suy nghĩ về 30 tháng 4. Tôi nêu ý kiến là phải chấm dứt việc gọi Việt Nam Cộng hòa (VNCH) là “ngụy” và Tuổi Trẻ lúc ấy đã đăng. Theo dõi, tôi thấy thay đổi chậm, nhiều phim tài liệu chiếu trên Đài Truyền hình Quốc gia vẫn ra rả... “ngụy”. Tôi mong dịp 30 tháng 4 này, Bộ Chính trị có văn bản chỉ đạo toàn bộ hệ thống chính trị không được gọi VNCH là ngụy. Nếu điều đó được làm với sự thành tâm thì không chỉ nhằm hòa giải đoàn kết dân tộc mà còn liên quan mật thiết đến tính pháp lý khi chúng ta khẳng định với thế giới rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam (1).

Ví dụ, Nguyễn Đình Bin – cựu Ủy viên BCH TƯ đảng CSVN, cựu Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao kiêm Chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài – nhấn mạnh “thiết tha kiến nghị” của ông: Truy phong “Liệt sĩ” và khen thưởng xứng đáng các sĩ quan, binh lính, viên chức của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã hy sinh để bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc ở Hoàng Sa. Đó là những người con đích thực của dân tộc Việt Nam. Thực hiện đầy đủ chính sách người có công hiện hành đối với họ và thân nhân, cũng như tất cả sĩ quan, binh lính, viên chức khác của chính quyền Việt Nam Cộng hòa và đồng bào miền Nam đã có công tham gia phục vụ cuộc chiến đấu lịch sử này.

Ông Bin đề nghị: Xây dựng tượng đài xứng đáng về sự kiện hải chiến ở Hoàng Sa tại thành phố Đà Nẵng. Xây dựng tượng đài xứng đáng tưởng niệm các Liệt sĩ Gạc Ma và những người đã anh dũng hy sinh bảo vệ quần đảo Trường Sa tại thành phố Nha Trang. Xây dựng tượng đài xứng đáng, đặt tại Hà Nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh để tưởng niệm tất cả đồng bào ta, dù ở bên này hay bên kia, đã ngã xuống trong các cuộc chiến tranh đã diễn ra trên đất nước ta hơn một thế kỷ qua, nói cho cùng, cũng như toàn thể dân tộc ta, đều là nạn nhân của đại họa ngoại bang đến thống trị và xâm lược nước ta và của cuộc xung đột tư tưởng Đông – Tây trực tiếp đã diễn ra trên đất nước ta.

Ông Bin còn đề nghị: Chấm dứt chính sách phân biệt đối xử, thực hiện chính sách xã hội hiện hành đối với cả các thương, phế binh, viên chức cũ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa và thân nhân. Theo ông: Các việc làm nói trên sẽ lay động mọi trái tim Việt, khơi dậy và thổi bùng nhiệt huyết yêu nước, tình nghĩa đồng bào, góp phần hòa giải, hòa hợp, hàn gắn vết thương dân tộc sau gần nửa thế kỷ chiến tranh chấm dứt vẫn còn rỉ máu, kết nối mọi con cháu các Vua Hùng, ở trong cũng như ngoài nước, thành một khối, đồng lòng sát cánh cùng nhau chung sức đạp bằng mọi chông gai, trở ngại, đưa non sông gấm vóc bật dậy, đuổi kịp và sánh vai tiến bước cùng các quốc gia giầu mạnh, tiên tiến trên thế giới, bảo vệ vững chắc toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời thiêng liêng của Tổ quốc đã và đang bị Trung Quốc vi phạm, xâm lấn nghiêm trọng (2)...

Giống như 47 năm qua, tháng tư năm nay, có rất nhiều người hồi tưởng về những gì họ đã trải qua trước, trong cũng như sau sự kiện 30/4/1975, chẳng hạn trên “Trang văn chương miền Nam” (3), Thanh Luu đề nghị mỗi người trong số hơn 75.000 thành viên kể lại chuyện của chính họ (4)...

30 tháng 4 năm nay, Hoang Ngoc Dieu công bố một tài liệu được lưu trữ trong kho dữ liệu của “Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Khánh” (hình thành sau tháng 4/1975 và đã được tách ra thành Phú Yên và Khánh Hòa). Theo Hoang Ngoc Dieu thì trong quá trình lục lọc, tìm kiếm tài liệu, ông tìm được tài liệu này – bản thống kê tên chủ sở hữu và địa chỉ những bất động sản bị đảng CSVN “tịch thu” sau khi “giải phóng hoàn toàn miền Nam”. Hoang Ngoc Dieu nhấn mạnh, danh sách bất động sản bị tịch thu và nay ông công bố chỉ trong phạm vi thị xã Nha Trang – nơi theo thống kê của Nha Điền địa chỉ có khoảng hơn 10.000 gia đình nhưng có tới hơn 1.000 gia đình bị “tịch thu” nhà.

Ngoài việc đề nghị mọi người tham khảo, Dieu lưu ý: Ai có tên trong danh sách hoặc ai đang cư ngụ ở những địa chỉ có trong danh sách thì nên biết rằng, năm xưa, từng căn nhà trong danh sách này đã từng là mái ấm – nơi cư trú của gia đình nào đó rồi bị cướp đoạt sau khi miền Nam “được giải phóng” (5).

Từ danh sách mà Hoang Ngoc Dieu công bố, Như Hiếu – một friend của Dieu – kể thêm câu chuyện về gia đình bác gái. Vợ chồng bà có bốn người con ngụ ở Nha Trang. Họ có nhà và một dãy phòng trọ cho thuê. Sau khi miền Nam “được giải phóng”, gia đình này không chỉ tan tác mà còn mất sạch tài sản. Đầu tiên là dãy phòng trọ cho thuê bị tịch thu, kế đó là họ bị “tịch biên tài sản” vì là “tư sản”. Trắng tay, họ bỏ Nha Trang vào TP.HCM ở trọ nhà sui gia rồi mất... Con cái họ đã bỏ xứ đi ngoại quốc. Như Hiếu cho biết: Anh chị họ của tôi giờ đang ở bên Mỹ. Tuy không tiện để hỏi cho tường tận nhưng tôi biết chắc toàn bộ tài sản của họ đều... lọt vào tay... “tộc cối”!..

Cho dù vẫn đề cao... “hòa hợp, hòa giải” nhưng những diễn biến về mặt nhận thức trong tất cả các giới ở Việt Nam như vừa kề đã khiến hệ thống chính trị, hệ thống công quyền buộc phải tự lột mặt nạ, một số cơ quan truyền thông trong hệ thống truyền thông chính thức như Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân,... trước nay luôn sắm vai... “xung kích” để bảo vệ... “sự đúng đắn” của đảng CSVN, giờ bị đẩy vào thế phải sổ toẹt “hòa hợp, hòa giải” hay “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết”... Theo Quân Đội Nhân Dân thì... “Hòa hợp dân tộc không phải là trộn lẫn, đánh đồng chính nghĩa và phi nghĩa” (6).

Bất kể các tư liệu lịch sử đã được bạch hóa cả ở trong lẫn ngoài Việt Nam, chứng minh đảng CSVN đã xâm chiếm miền Nam Việt Nam suốt 20 năm, chính quyền cộng sản ở miền Bắc Việt Nam đã vi phạm các cam kết với cộng đồng quốc tế trong những hiệp định như Geneve (1954), Paris (1973), vừa xin, vừa vay đủ thứ từ các quốc gia trong khối cộng sản, vừa đón ngoại nhân vào lãnh thổ để gia tăng nguồn lực xâm chiếm miền Nam,... thì “hòa hợp dân tộc” vẫn là phải cúi đầu thừa nhận... sự kháng cự của miền Nam Việt Nam là “phi nghĩa” và “chính quyền Việt Nam Cộng hòa là tay sai của Mỹ, thực hiện mưu đồ của Mỹ là biến Việt Nam trở thành thuộc địa kiểu mới”.

Với quan điểm như thế, Công An Nhân Dân xếp những người không chấp nhận “hòa hợp, hòa giải” bằng cách... cúi đầu thừa nhận “chính nghĩa” của cuộc chiến 21 năm do đảng CSVN khởi xuống để “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” là “chống đối”, xếp việc có chính kiến khác với quan điểm của đảng về cuộc chiến này là “giữ cách nhìn thù hận về đất nước, quê hương”. Lên án họ “không có khái niệm hòa hợp”, thiếu thiện chí, “chứng tỏ sự bảo thủ, định kiến trước sự đổi mới, mở cửa của đất nước cũng như truyền thống bao dung, chung lòng đất mẹ, ân nghĩa một nhà…”. Khuyên họ “hướng về nguồn cội bằng sự chân thành chứ không phải là đặt điều kiện” (7).

Còn ba năm nữa là tròn 50 năm Việt Nam thống nhất về mặt địa lý nhưng thực tế cho thấy, thời gian không phải là yếu tố có thể tạo ra... đồng tâm. Tại sao “hòa hợp, hợp giải” thất bại, thậm chí càng ngày càng nhiều người Việt nhận thức lại về cuộc chiến “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, về sự kiện 30/4/1975?

Vì sao CSBV có thể đưa xe tăng vào trận địa một cách bí mật trong Chiến dịch Tây Nguyên?

Để giữ bí mật, bộ đội tăng, thiết giáp ngoài tinh thần kỷ luật hành quân của CSBV rất nghiêm ngặt, còn phải mưu trí, sáng tạo, linh hoạt.

Trường Giang/VOV (thực hiện)|

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đặc biệt là Chiến dịch Tây Nguyên, nghệ thuật tác chiến của Bộ đội Tăng – Thiết giáp đã phát triển đến trình độ cao. Bộ đội Tăng – Thiết giáp đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiêu diệt các mục tiêu quan trọng, chi viện, hỗ trợ bộ binh đánh chiếm các mục tiêu quan trọng, then chốt, tạo nên bước đột phá trong từng trận đánh, từng chiến dịch, góp phần quan trọng đẩy nhanh sự sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng hòa (VNCH).

Phóng viên VOV phỏng vấn Đại tá, Tiến sĩ Trịnh Đình Thuận, giảng viên Khoa Binh chủng, Học viện Quốc phòng về nội dung này.

Đại tá, Tiến sĩ Trịnh Đình Thuận, giảng viên Khoa Binh chủng, Học viện Quốc phòng

PV : Trong Chiến dịch Tây Nguyên, xe tăng của ta đã phải cơ động hơn 300km, địch có hệ thống trinh sát hiện đại, xe tăng khi cơ động lại phát ra tiếng ồn lớn. Vậy làm thế nào chúng ta có thể đưa xe tăng vào trận địa một cách bí mật mà địch không phát hiện ra?

Đại tá Trịnh Đình Thuận : Để tạo sức mạnh áp đảo trong Chiến dịch Tây Nguyện, đặc biệt là trận đánh vào thị xã Buôn Ma Thuột, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã tập trung toàn bộ Trung đoàn Tăng – Thiết giáp 273, với 63 xe tăng, thiết giáp cho cuộc tiến công thị xã Buôn Ma Thuột.

Đây cũng là lần đầu tiên ta sử dụng một trung đoàn tăng cho một trận then chốt. So sánh lực lượng trong trận này, tăng, thiết giáp của ta gấp 4,8 lần. Làm thế nào để chúng ta có thể đưa xe tăng vào thị xã Buôn Ma Thuột một cách bí mật, bất ngờ? Để sử dụng xe tăng bí mật, tạo yếu tố bất ngờ là vấn đề hết sức khó khăn. Do tăng, thiết giáp là mục tiêu có kích thước lớn, khi cơ động tạo tiến ồn, khói bụi, độ phát xạ, phát nhiệt cao dễ bị không quân, trinh sát của địch phát hiện.

Để giữ bí mật, bộ đội tăng, thiết giáp ngoài tinh thần kỷ luật hành quân rất nghiêm ngặt thì còn phải mưu trí, sáng tạo, linh hoạt. Điều này được chứng minh, đó là cuối tháng 2/1975, Trung đoàn xe tăng 273 đã vượt 300km từ Bắc Kon Tum xuống Nam Tây Nguyên vào khu vực tập kết cách Buôn Ma Thuột 40km trong điều kiện trên đường hành quân, máy bay trinh sát của địch hoạt động liên tục, các tốp biệt kích thám báo thăm dò.

Để tránh địch phát hiện, đơn vị đã quán triệt tuyệt đối không sử dụng vô tuyến điện khi liên lạc, xe tăng luôn được ngụy trang cẩn thận, khi ra vào khu vực trú quân phải xóa sạch vết xích, đặc biệt là chủ yếu hành quân vào ban đêm. Nhờ vậy, xe tăng của ta đã đến khu vực tập kết bảo đảm an toàn.

PV : Nhưng đó chỉ là bước đầu vì từ vị trí tập kết đến thị xã Buôn Ma Thuật còn 40km nữa, việc đưa xe tăng vào thị xã một cách bí mật không phải là chuyện dễ dàng?

Đại tá Trịnh Đình Thuận : Để giải quyết vấn đề này, bộ đội tăng, thiết giáp đã có cách làm rất mưu trí, sáng tạo đó là hiệp đồng chặt chẽ với bộ binh, công binh của chiến dịch đi trinh sát và đánh dấu các đường cơ động cho xe tăng. Các cây trên đường được bộ đội ta cưa đứt 2/3 thân cây theo chiều xe tiến, để tránh bị lộ.

Đến giờ xuất kích, lợi dụng tiếng nổ của pháo binh, súng bộ binh, xe tăng của ta xông lên húc đổ cây để cơ động với tốc độ cao, dẫn dắt bộ binh xung phong. Sự xuất hiện của xe tăng, xe thiết giáp khiến địch vô cùng bất ngờ, hoảng loạn. Kết quả là 11h ngày 11/3 (tức là chỉ sau hơn 1 ngày chiến đấu), toàn bộ quân địch ở thị xã Buôn Ma Thuột bị tiêu diệt.

Pháo binh và xe tăng quân giải phóng trên đường hành quân vào giải phóng Quy Nhơn (Ảnh Vũ Tạo/TTXVN)

PV : Phát huy lợi thế, kinh nghiệm từ Chiến thắng Tây Nguyên, nhất là trận đánh then chốt quyết định vào thị xã Buôn Ma Thuột thì đến với Chiến dịch Hồ Chí Minh, cách đánh của bộ đội tăng, thiết giáp được thể hiện như thế nào?

Đại tá Trịnh Đình Thuận: Sau đòn điểm huyệt ở Buôn Ma Thuột, địch có triệu chứng tan vỡ, tạo cho ta thời cơ chiến lược vô cùng thuận lợi, đòi hỏi các lực lượng của ta phải có cách đánh táo bạo, thần tốc đạt hiệu suất chiến đấu cao hơn.

Trong bối cảnh đó, bộ đội tăng, thiết giáp đã vận dụng thành công cách đánh mới đó là “đánh địch trong hành tiến”. Cách đánh này được thể hiện đó là ta rút ngắn thời gian làm công tác tổ chức chuẩn bị. Quá trình hành quân tiếp cận địch cũng là quá trình bổ sung kế hoạch tác chiến.

Quá trình tiến công kết hợp đột phá mạnh với bao vây, chia cắt quân địch, dẫn dắt và cùng bộ binh đánh lướt qua, thọc sâu đánh chiếm mục tiêu đã định. Cách đánh này được vận dụng khi quân ta tiến vào Sài Gòn, Lữ đoàn Tăng 203 đã đánh lướt qua ngã ba Xa Lộ, ngã ba Thủ Dầu Một, ngã tư Thủ Đức, cầu Sài Gòn, cầu Thị Nghè để nhanh chóng tiến vào đánh chiếm dinh Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn.

Khi gặp địch ngăn cản ở dọc đường ta tìm cách kiềm chế, đánh lướt, đánh vòng sau lưng địch buộc chúng phải tháo chạy. Bên cạnh đó, cách đánh còn thể hiện tinh thần tích cực, chủ động, sáng tạo, nghệ thuật sử dụng tăng, thiết giáp linh hoạt, đúng thời cơ.

Như ta thấy, khi tiến công vào Sài Gòn, các trung đoàn, lữ đoàn tăng, thiết giáp đã sử dụng 1 phần lực lượng chi viện cho các binh đoàn làm nhiệm vụ đột phá, mở cửa chiến dịch nhằm bao vây, tiêu diệt các lực lượng tác chiến chủ yếu của quân ngụy ở vòng ngoài thành phố, chặn tất cả các con đường rút vào Sài Gòn, không cho chúng co cụm. Lực lượng tăng, thiết giáp còn lại tham gia tác chiến trong lực lượng thọc sâu của các quân đoàn.

PV : Ông có thể cho biết rõ hơn về nghệ thuật hiệp đồng tác chiến giữa bộ binh và xe tăng trong trận quyết chiến cuối cùng – Chiến dịch Hồ Chí Minh?

Đại tá Trịnh Đình Thuận: Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, nghệ thuật hiệp đồng tác chiến giữa bộ binh và xe tăng được thể hiện trên cả 2 phương thức:

Phương thức hiệp đồng thứ nhất là tăng, thiết giáp được phối thuộc cho các trung, sư đoàn bộ binh để chi viện hoặc cùng các phân đội bộ binh chiến đấu dưới sự chỉ huy của người chỉ huy binh chủng hợp thành cấp trung đoàn, sư đoàn. Phương pháp này được áp dụng tương đối phổ biến trong các chiến dịch trước đây.

Phương thức hiệp đồng thứ 2 là tiểu đoàn, trung đoàn hoặc lữ đoàn tăng, thiết giáp được tăng cường thêm các đơn vị bộ binh, pháo binh, cao xạ, công binh… lấy tăng, thiết giáp làm lực lượng trung tâm để hiệp đồng, các lực lượng chiến đấu dưới sự chỉ huy của cán bộ tăng, thiết giáp. Đây là bước phát triển rất mới về nghệ thuật tác chiến của bộ đội tăng, thiết giáp.

Với phương thức này khi đảm nhiệm mũi vu hồi chiến dịch hay thọc sâu, khi hành động trên một hướng chiến dịch, trong một thế trận chung, lực lượng tăng, thiết giáp vẫn có thể hoàn thành vai trò là lực lượng đột kích chủ yếu của nó.

Điển hình là trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Lữ đoàn Xe tăng 203 đã thực hiện thành công phương thức này khi dẫn đầu đầu đội hình thọc sâu của Quân đoàn 2 đánh vào sào huyệt cuối cùng của chế độ ngụy quyền Sài Gòn giành thắng lợi góp phần đi đến kết thúc chiến tranh.

Với cách đánh trên đã mang lại hiệu quả to lớn, trên 5 hướng tiến công, tăng, thiết giáp đã trở thành lực lượng đột kích chủ yếu, chi viện đắc lực cho các binh đoàn hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đột phá chiến dịch trong thời gian ngắn và dẫn đầu đội hình đánh chiếm 5 mục tiêu trọng yếu của chiến dịch ở trung tâm Thành phố Sài Gòn, với hình ảnh 2 chiếc xe tăng mang số hiệu 390 và 843 húc đổ cổng chính Dinh Độc lập trưa 30/4/1975 là minh chứng sinh động, đồng thời là niềm tự hào của Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung và của bộ đội tăng, thiết giáp Việt Nam nói riêng.    Vương Hồng Anh

Một Câu Chuyện Về Hai "Cuộc Giải Phóng": Hồ Chí Minh và Donald Trump

**Ngày 30 tháng 4 năm 1975** và **ngày 2 tháng 4 năm 2025** — hai mốc thời gian tưởng chừng không liên quan, nhưng lại có một điểm chung đáng chú ý. Cả hai đều được ca ngợi là những "cuộc giải phóng," nhưng đằng sau những khẩu hiệu chiến thắng là những câu chuyện về tranh cãi, vỡ mộng và hậu quả không mong muốn. "Giải phóng" miền Nam Việt Nam của Hồ Chí Minh và "Ngày Giải Phóng" tự xưng của Donald Trump cho nền kinh tế Mỹ đều cho thấy một điểm chung: tuyên truyền chiến thắng thực tế.

*"Giải Phóng" của Hồ Chí Minh: Một Chiến Thắng Đắt Giá**

Vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, quân đội miền Bắc tiến vào Sài Gòn, tuyên bố "giải phóng" miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế sau đó lại là một bức tranh ảm đạm đối với người dân miền Nam, những người bị "giải phóng" khỏi một hệ thống chỉ để bị ràng buộc bởi một hệ thống khác. Đây là những gì mà "giải phóng" thực sự mang lại:

- **Sụp Đổ Kinh Tế**: Nền kinh tế tương đối thịnh vượng của miền Nam bị phá hủy. Tài sản tư nhân bị tịch thu, doanh nghiệp bị quốc hữu hóa, và tài sản được phân phối lại — nhưng chủ yếu rơi vào tay chế độ mới.

- **Tước Đoạt Tự Do Cá Nhân**: Lời hứa về tự do nhanh chóng tan biến khi kiểm duyệt, đàn áp chính trị và các trại cải tạo trở thành điều bình thường. "Giải phóng" trở thành một cách nói khác của kiểm soát và áp bức.

- **Một Quốc Gia Chia Rẽ**: Trong khi miền Bắc tuyên bố thống nhất, những vết sẹo do chiến tranh và việc áp đặt các lý tưởng cộng sản đã làm sâu sắc thêm sự oán giận, khiến nhiều người phải bỏ trốn dưới dạng "thuyền nhân."

Trớ trêu thay, nhiều thập kỷ sau, chính chế độ từng trục xuất người Mỹ "đế quốc" lại trải thảm đỏ chào đón các nhà đầu tư và viện trợ từ Hoa Kỳ, một biểu tượng rõ ràng của sự mâu thuẫn.

*"Ngày Giải Phóng" của Trump: Kinh Tế Cô Lập**

Chuyển sang ngày 2 tháng 4 năm 2025, chúng ta chứng kiến một "cuộc giải phóng" khác — lần này do cựu Tổng thống Donald Trump dẫn đầu. Ông tuyên bố áp dụng các mức thuế nhập khẩu lớn, gọi đó là "Ngày Giải Phóng," với lời hứa giải phóng nước Mỹ khỏi sự phụ thuộc vào hàng hóa nước ngoài và khôi phục vinh quang kinh tế. Nhưng giống như "giải phóng" của Hồ Chí Minh, thực tế lại cho thấy một bức tranh khác:

- **Thuế Quan Tăng Vọt**: Với mức thuế 10% áp dụng cho tất cả hàng nhập khẩu và mức cao hơn đối với các đối tác thương mại chính, kế hoạch của Trump ngay lập tức gây chấn động thị trường toàn cầu. Người tiêu dùng Mỹ, vốn đã phải đối mặt với lạm phát, giờ đây phải chịu giá cả cao hơn cho các mặt hàng thiết yếu.

- **Cô Lập Kinh Tế**: Bằng cách làm mất lòng các đối tác thương mại như Trung Quốc và Liên minh Châu Âu với mức thuế lần lượt là 34% và 20%, Mỹ có nguy cơ mất vị thế là một đối tác thương mại đáng tin cậy. Các doanh nghiệp phụ thuộc vào chuỗi cung ứng toàn cầu phải đối mặt với sự gián đoạn.

- **Lợi Ích Ngắn Hạn, Đau Đớn Dài Hạn**: Trong khi Trump ca ngợi động thái này là một chiến thắng cho ngành sản xuất Mỹ, các nhà kinh tế cảnh báo về việc mất việc làm trong các ngành phụ thuộc vào xuất khẩu và giảm đầu tư nước ngoài. "Giải phóng" này phải trả giá bằng sự ổn định kinh tế.

  **Những Điểm Tương Đồng Trong Tuyên Truyền**

 Cả hai nhà lãnh đạo đều sử dụng ngôn từ hoa mỹ để che giấu những tác động sâu xa của hành động của họ:

 - **"Giải Phóng" Là Một Lớp Màn Che**: Lời hứa tự do của Hồ Chí Minh che giấu một chế độ áp bức. "Ngày Giải Phóng" của Trump cũng che đậy một chính sách có nguy cơ gây hại kinh tế dưới danh nghĩa lòng yêu nước.

 - **Người Dân Phải Trả Giá**: Trong cả hai trường hợp, người dân thường phải gánh chịu hậu quả. Đối với miền Nam Việt Nam, đó là mất đi sự tự chủ và thịnh vượng. Đối với người Mỹ, đó có thể là chi phí sinh hoạt cao hơn và ảnh hưởng toàn cầu suy giảm.

 **Kết Luận: Một Bài Học Cảnh Báo**

Lịch sử có xu hướng lặp lại, thường theo những cách mỉa mai nhất. "Giải phóng" miền Nam Việt Nam của Hồ Chí Minh và "giải phóng" nền kinh tế Mỹ của Donald Trump là những bài học cảnh báo về nguy cơ của ngôn từ dân túy và các chính sách thiển cận. Dù là trên đường phố Sài Gòn năm 1975 hay trong các phòng họp của Mỹ năm 2025, một sự thật vẫn tồn tại: sự giải phóng thực sự không thể bị ép buộc, và chắc chắn không thể mua được bằng những lời hứa rỗng tuếch và khẩu hiệu cao xa.



Tháng Tư 1975, Những Ngày Cuối Cùng 

Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Nguyên Tư Lệnh ...

Người trấn giữ mặt trận Xuân Lộc. Cố Thiếu tướng Lê Minh Đảo

“I will hold Long Khánh. I will knock them down here even if they bring two divisions or 3 divisions”. (Tôi sẽ giữ Long Khánh. Tôi sẽ đánh tan họ dù thậm chí họ có 2 hoặc 3 sư đoàn).

Thiếu tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18 Quân lực VNCH, tại mặt trận Xuân Lộc trong những ngày đầu tháng 4 năm 1975, đã khẳng định rằng sẽ quyết giữ Long Khánh và sẽ đánh tan địch quân dù họ có sử dụng đến 2,3 sư đoàn. Lời khẳng định này được truyền thông quốc tế ghi lại trong thước phim tư liệu chiến trường và vẫn được công chiếu suốt 45 năm qua.

Mặt trận Xuân Lộc là một trận đánh lớn cuối cùng tại cửa ngỏ Sài Gòn. Thiếu tướng Lê Minh Đảo lúc bấy giờ giữ trọng trách ngăn chận Quân đội Bắc Việt và trận chiến đã diễn ra trong 12 ngày đêm.

Vị tướng chỉ huy Sư đoàn 18 Quân lực VNCH đã cùng đồng đội của ông tiếp tục chiến đấu oai hùng cho đến khi Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh buông súng đầu hàng vào trưa ngày 30/4/1975. Không lâu sau thời khắc chiến tranh Việt Nam chấm dứt, Thiếu tướng Lê Minh Đảo ra trình diện chính quyền mới và bị đưa ra Bắc đi tù cải tạo trong suốt 17 năm dài. Ông được trả tự do và đến Mỹ định cư hồi tháng 4 năm 1993.

Trong bối cảnh miền Nam Việt Nam đang bị Cộng sản tràn ngập thì Tướng Lê Minh Đảo đã thề tử thủ và quyết chiến tới cùng, dầu số lượng của địch quân gấp mấy lần. Ông là một người có tư cách của một vị tướng, không bỏ bạn bè, không bỏ anh em và đã không bỏ ra đi mà ở lại để nhận trách nhiệm của một người chỉ huy

-Cựu Trung úy Nguyễn Khác Sơn
Cựu Trung úy Nguyễn Khắc Sơn, thuộc Sư đoàn 18, nói với RFA về ghi nhận của ông đối với Thiếu tướng Lê Minh Đảo trong những giờ phút hấp hối của cuộc chiến tranh Việt Nam:

“Trong bối cảnh miền Nam Việt Nam đang bị Cộng sản tràn ngập thì Tướng Lê Minh Đảo đã thề tử thủ và quyết chiến tới cùng, dù số lượng của địch quân gấp mấy lần. Ông là một người có tư cách của một vị tướng, không bỏ bạn bè, không bỏ anh em và không ra đi mà ở lại để nhận trách nhiệm của một người chỉ huy.”

Ông Nguyễn Khắc Sơn cho biết sau khi ra hải ngoại, ông có vài dịp tiếp xúc và trò chuyện với cựu Thiếu tướng Lê Minh Đảo. Ông rất xúc động trước tinh thần vững vàng luôn hướng về quê hương Việt Nam của Tướng Đảo.

Tâm tình của một ông tướng

Nhân 40 năm cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc, cựu Thiếu tướng Lê Minh Đảo, trong một cuộc phỏng vấn với Đài RFA, đã chia sẻ rằng:

“Bây giờ nhìn lại: Ai thắng, ai bại, ai thua, ai đau khổ nhiều nhất? Tôi thấy rốt cuộc lại thì Mỹ thắng, thắng vẻ vang trong cuộc chiến tranh lạnh kéo dài 50 năm. Mỹ dùng chiến tranh Việt Nam để rồi bắt tay được với Trung Quốc. Họ đã hóa giải được với Trung cộng để kéo Trung Quốc về làm lực lượng của mình, để rồi tiếp tục sức mạnh của Mỹ với sự để yên của Trung Quốc và chấp cánh thêm để đập tan Xã hội chủ nghĩa của Liên Xô là mối đe dọa của thế giới tự do thì tôi thấy Mỹ đã thắng.”

Là một tướng lãnh cấp cao trong quân đội, cựu Thiếu tướng Lê Minh Đảo cho rằng sự mất mát, tang thương của dân tộc trong chiến tranh vẫn còn mãi âm ỉ mặc dù quê hương không còn tiếng súng:

“Sự đau khổ của người dân Việt Nam thì ai là người đau khổ tột cùng? Chính người phụ nữ Việt Nam ở cả hai miền Nam-Bắc, nhất là ở ngoài Bắc thì nhiều hơn. Họ mất chồng, mất cha, mất con. Chính đây là sự đau khổ của chị em trong cuộc chiến tranh oan nghiệt này đã làm cho đất nước Việt Nam của chúng ta đầy tang tóc và nước mắt lúc nào cũng không ngưng chảy cho đến ngày hôm nay.”

Cựu Thiếu tướng Lê Minh Đảo, ở tuổi đời đã quá “cổ lai hy”, vẫn đau đáu nỗi niềm với đất nước Việt Nam mà ông đã cùng rất nhiều thanh niên thế hệ mình lẫn ngoài Bắc trong Nam từng dành trọn lý tưởng tuổi thanh xuân để vì một quê hương hòa bình, độc lập:

“Chúng ta thấy rằng ngày nào họ (Đảng CSVN) còn cai trị đất nước thì Cộng sản Trung Quốc còn bành trướng theo kiểu mới đối với dân tộc của ta và dân tộc sẽ chết dần chết mòn đi đến diệt vong.”

Lời nhắn nhủ với thế hệ tiếp nối

Nỗi lo lắng về mối nguy hại mà Trung Quốc đã, đang và sẽ tiếp tục gây ra cho dân tộc Việt được cựu Thiếu tướng Lê Minh Đảo dặn dò không chỉ với con cháu trong gia đình, mà ông còn nhắn nhủ với các thế hệ người Việt mỗi khi có dịp.

Cựu Trung tá Hải quân Hoa Kỳ Nguyễn Anh Tuấn là một trong những người từng được tiếp xúc với cựu Thiếu tướng Lê Minh Đảo hai lần. Và, cả hai lần ông đều được nghe Tướng Lê Minh Đảo nhắn nhủ hãy hướng lòng về quê hương Việt Nam và gắng sức vì sự tồn vong của dân tộc Việt.

“Bác có nhắn nhủ là thế hệ của tôi nên dạy dỗ con cái hiểu tại sao mình có mặt ở đất nước Hoa Kỳ này và phải hướng về đất nước Việt Nam. Bác cũng hy vọng chúng tôi dạy dỗ con cái là đất nước Việt Nam vẫn còn đó, chứ không thể nào mất được.”

Cựu Đại úy Quân lực VNCH, ông Thanh Nguyễn chia sẻ với Đài RFA về hồi ức của ông với cựu Thiếu tướng Lê Minh Đảo. Trong thời chiến, ông Thanh Nguyễn từng được 1 lần gặp gỡ và rất ngưỡng mộ vị tướng này. Ông Thanh Nguyễn ghi nhận trong thời gian 2 năm cuối của chiến tranh Việt Nam, từ năm 1973 đến năm 1975, Thiếu tướng Lê Minh Đảo được thuyên chuyển về chỉ huy Sư đoàn 18, một sư đoàn được đánh giá là yếu nhất đã trở thành một trong những sư đoàn mạnh nhất của Quân lực VNCH. Cựu Đại úy Thanh Nguyễn mấy mươi năm sau vẫn rất ấn tượng và khâm phục đối với cựu Thiếu tướng Lê Minh Đảo:

Hòa giải với dân chúng, hòa giải với đảng phái, hòa giải với tôn giáo, hòa giải với tất cả những người trong nước. Có hòa giải được rồi thì mới hòa hợp được với người dân trong nước, làm sao cho dân chúng tin nơi anh thì lúc đó hãy nói chuyện với người Việt hải ngoại

-Cố Thiếu tướng Lê Minh Đảo

“Những hình ảnh đầu tiên tôi đã gặp lại ông trên màn ảnh tivi của đài truyền hình Mỹ. Đối với tôi, ông là một vị tướng có một nét rất đặc biệt. Trong các cuộc phỏng vấn, ông không hề mang một vẻ hận thù nào cả, mà chỉ nhắn với người phía bên kia là bên thắng cuộc một điều ưu tư của một con người yêu nước thật sự là làm sao hãy hòa hợp với mọi người; tức là người Cộng sản hãy hòa hợp với dân tộc rồi sau đó mới hãy hòa hợp với những người Việt đang sống ở nước ngoài.”

Hồi hạ tuần tháng 8 năm 2017, cựu Thiếu tướng Lê Minh Đảo qua làn sóng phát thanh của RFA cũng kêu gọi Đảng Cộng sản Việt Nam hãy thực tâm lãnh đạo quốc gia vì dân, vì nước chứ không phải theo khẩu hiệu suông “hòa giải, hòa hợp dân tộc”. Cựu Thiếu tướng Lê Minh Đảo nhấn mạnh:

“Hòa giải với dân chúng, hòa giải với đảng phái, hòa giải với tôn giáo, hòa giải với tất cả những người trong nước. Có hòa giải được rồi thì mới hòa hợp được với người dân trong nước, làm sao cho dân chúng tin nơi anh thì lúc đó hãy nói chuyện với người Việt hải ngoại.”

Cựu Thiếu tướng Lê Minh Đảo đã trút hơi thở cuối cùng gần thời điểm dân tộc Việt tưởng niệm 45 năm Chiến tranh Việt Nam kết thúc. Vài ngày trước khi mất, những chia sẻ cuối cùng của ông tướng 87 tuổi đời với phóng viên Hòa Ái của Đài RFA rằng thế hệ của ông dù đã rất cố gắng nhưng chưa làm trọn. Tuy nhiên, ông vẫn vững niềm tin các thế hệ Việt Nam tiếp nối sẽ thực hiện được lý tưởng quê hương thanh bình và tươi sáng, như ông đã từng gửi gấm trong nhạc phẩm “Nhớ Mẹ” mà ông đã sáng tác trong chốn tù đày:

“Mẹ ơi! Mẹ biết không? Còn cháy mãi trong con những lời mẹ cầm tay nói nắng sẽ về đẩy lùi bóng tối và yêu thương, tự do sẽ còn mãi mãi nhé con!” RFA

NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG

Bạn Quốc Thông, cư trú tại Whittier, California, từng dự Giải Thưởng Việt Báo với bài "Nhớ về trại Pendleton". Sau đây là bài thứ hai của bạn, viết về “Những ngày cuối cùng của tháng tư năm 1975 ". Mong bài viết của bạn Thông sẽ là một gợi ý cho nhiều bài viết hồi tưởng khác.



Tuần rồi, đi dự đám cưới một người bạn làm chung sở, Huy đã giật mình khi thấy một cô gái khoảng tuổi trên đôi mươi.
Giống như nhân vật Dương Tiêu trong truyện Cô Gái Đồ Long khi nhìn thấy cô gái Tiểu Siêu, phải thốt lên "giống quá", ý muốn nói cô gái nầy quá giống người mẹ là Tía Sam Long Vương. Sự kiện ngoài đời có khác gì trong truyện. Lần đầu thấy người con gái trong tiệc cưới, Huy đã phải buột tiếng kêu thầm: sao giống Tùng Linh ngày xưa quá!
Tùng Linh, mỗi lần nhớ về nàng lòng Huy quặn đau cho cuộc tình gẫy cánh tức tưởi, không nói được một lời giã từ. Chàng đã phải xa nàng để nhớ nàng đời đời. Bởi chàng đã xa nàng ở những ngày cuối cùng của tháng tư năm 1975.
Nhớ hôm đầu tiên gặp Tùng Linh từ giảng đường văn khoa bước ra, Vinh đã bị dung nhan nàng hấp dẫn tức thì. Khuôn mặt trái xoan nước da trắng dáng điệu khoan thai quý phái, nhất là đôi mắt đen sâu thẳm hình như ẩn chứa nét u buồn nào đó nên dễ làm thu hút kẻ đối diện.
Bất ngờ làm sao, cuối tuần đi dự sinh nhật cô bạn tên là Tùng Lan, vừa tốt nghiệp Cử Nhân Pháp Văn năm vừa qua ở đại học Văn Khoa, sau nầy đi dạy ở trường Pháp Marie Curie, Huy đã gặp nàng ở đó.
Chính Tùng Lan dẫn cô em mà chàng đã "tương tư" mấy ngày qua đến giới thiệu với chàng, rồi cười thân thiện:
- Nè, bạn còn ở Văn Khoa, hãy lo tử tế cho em gái tôi nghe. Nhỏ nầy mới vào Sài Gòn nên còn thơ ngây lắm đó.
Huy mừng rỡ ra mặt:
- Hân hạnh được lo tất cả cho Tùng Linh. Huy nói.
Huy, Tùng Lan và Minh, ông xã tương lai của Tùng Lan, là bạn học với nhau từ năm dự bị ở đại hoc Văn Khoa niên khóa 68-69.
Chàng thật ngạc nhiên vô cùng khi vừa biết Tùng Linh là em gái của Tùng Lan. Da cô chị thì đen ròn, trong khi nước da của Tùng Linh trắng ngần với đôi gò má hồng. Tùng Lan thì nói giọng Huế trong khi giọng cô em thì không giống địa phương nào, chỉ thấy như chim hót. Sau nầy Huy có hỏi Tùng Linh về sự khác biệt nầy, thì được nàng cho biết rằng song thân là người Huế, vô lập nghiệp ở Nha Trang và nàng học nội trú trường Pháp ở Đà Lạt từ bậc tiểu học. Do đó mà giọng nói của nàng không còn chút âm hưởng Huế nào hết.
Những ngày sau đó là chuỗi dài những đón đưa, đưa đón Tùng Linh một cách hợp pháp và hợp tình nữa. Quả như cô chị Tùng Lan nói, càng gần cô em Huy càng thấy nàng tinh khiết trong trắng và thơ ngây quá, dù nàng là học sinh trường Pháp trên Đà Lạt và toàn vận mini jupe đi học.
Năm đó Tùng Linh thi đổ dễ dàng năm dự bị ban Anh Văn và phải trở về Nha Trang sống với ba mẹ ở ba tháng hè.
Sang năm 1975, lên năm thứ hai, Tùng Linh có phần dạn dĩ hơn, biết vào thư viện Văn Khoa tìm Huy và dám vào câu lạc bộ ngồi uống nước với chàng. Thời gian lặng lẽ trôi, tình yêu đôi lứa càng bền chặt và sâu đậm thêm. Cuộc đời đẹp biết bao! Nhưng chiến cuộc đến hồi khốc liệt, đã mất Ban Mê Thuột, Kontumn, Pleiku, rồi tới Nha thành là quê hương nàng đó.
Ngày 2 tháng 4 năm 1975 Cộng quân chiếm Nha Trang. Tức tốc Huy phóng xe nhanh đến nhà dì của nàng ở đường Trần Quang Khải mà hai chị em đang ở trọ.
Nước mắt lưng tròng đỏ hoe Tùng Linh bước ra mở cổng cho Huy, cả hai im lặng một hồi rồi chàng nói vài lời an ủi nàng, cùng cho nàng biết chàng sẵn lòng làm bất cứ gì để giúp đỡ nàng trong hoàn cảnh đau buồn mất liên lạc với song thân ở Nha thành. Trông nàng thiểu não buồn rầu vì mất tin tức mẹ cha, Huy thấy thương yêu nàng quá đỗi và chàng tự nhủ sẽ không lìa xa nàng trong tình thế đen tối nầy.
Ngày 15 tháng 4 năm 1975 Huy bảo nàng đưa thẻ sinh viên của nàng để chàng ghi danh thi giùm cho nàng. Đưa tấm thẻ sinh viên cho Huy, nàng cho Huy biết vừa được thư của người anh bên Mỹ, nói rằng ở bên Mỹ đang chuẩn bị giăng lều căng trại đón người thua trận, miền Nam kể như fini rồi. Do đó anh nàng sẽ gởi giấy tờ để bảo trợ nàng đi qua Mỹ du học. Ngoài ra ông giáo sư Anh Văn của nàng có nói với nàng rằng tình hình tới lúc đen tối lắm rồi, nếu nàng muốn đi Mỹ ông ta sẽ bảo trợ cho. Tùng Linh còn cho Huy biết thêm cô chị cả của nàng là Tùng Loan hiện làm Tiếp Viên Hàng Không có thể dẫn nàng đi nếu tình thế đến hồi kết cuộc.
Lòng Huy tê tái và se thắt lại khi nghe nàng nói như vậy, chàng sẽ phải xa nàng, tình chàng đối với nàng càng lậm sâu, ngày nào không được gặp nàng lòng chàng cảm thấy cuộc đời thật vô vị làm sao đâu. Thấy Huy buồn buồn khi biết nàng có nhiều cơ hội ra đi, Tùng Linh cười nhẹ rồi nói tiếp ngày nào chưa biết tin tức của song thân nàng vẫn chưa muốn đi đâu hết.
Nghe nàng nói như vậy Huy cảm thấy an tâm và nhẹ nhõm vì chàng không muốn xa nàng, mất nàng.
Thời gian nặng nề trôi, ngày nào Huy chở Tùng Linh tới trường Văn Khoa cũng chạy ngang qua Tòa Đại Sứ Mỹ, đã thấy có một số người đứng chờ ở đó chuẩn bị ra đi.
Ngày 22 tháng 4 năm 1975 Huy có đến thăm người bạn vì mấy ngày nay không thấy hắn đi cours, thì không thấy ai có ở nhà hết. Sau nầy gặp lại nhau trên xứ người, hắn cho biết toàn thể gia đình hắn được mục sư Cơ Đốc Giáo dẫn đi di tản âm thầm từ ngày đó.
Sáng thứ năm ngày 24 tháng 4 năm 1975 lòng Huy buồn rười rượi vì chàng vừa mới tiễn đưa anh chị chàng đi vào phi trường Tân Sơn Nhất. Người anh rể chàng là nhân viên làm cho cơ quan Mỹ, nên được phép vào phi trường để đi Mỹõ. Có xa những người thân Huy càng thương cảm cho hoàn cảnh của Tùng Linh nhiều hơn, đã bặt tin tức song thân từ ngày Nha Trang lọt vào tay Cộng quân. Chàng cảm thấy yêu thương nàng vô vàn.
Huy lên trường đón nàng, cả hai đi vào một quán kem, để chàng kể cho nàng nghe anh chị chàng đã vào phi trường Tân Sơn nhất hồi sáng hôm nay. Nàng hỏi Huy sao không đi theo gia đình anh chị, chàng cười và thành thật nói với nàng chàng chỉ muốn ở gần bên nàng mà thôi, dù cho có cơ hội di tản. Nghe vậy nàng nhìn thẳng mỉm cườitin tưởng. Và nàng cũng hứa với chàng nàng sẽ ở lại đây với chàng và gặp lại mẹ cha. Cả hai không muốn lìa xa nhau dù cho tình thế có rối rắm tới đâu đi nữa.
Sáng thứ bảy 26 tháng 4 năm 1975 tình hình chiến sự có vẽ bi quan lắm rồi. Mọi người gặp nhau đều nói tới chuyện tìm đường ra đi. Vậy mà buổi trưa nay anh chị của Huy lại từ phi trường Tân Sơn Nhất trở về nhà sau hai đêm nằm trong đó chờ chuyến bay. Lý do là ông xếp Mỹ không cho người mẹ của ông anh rể Huy lên phi cơ vào sáng sớm hôm nay. Theo lời người anh rể nói với Huy, chính quyền Mỹ chỉ cho phép người phối ngẫu và con cái của nhân viên làm việc cho họ đi mà thôi.
Huy bỗng nhớ người yêu, cả ngày hôm qua chàng đã không gặp được nàng. Và chàng thay đồ thật nhanh đi thăm nàng.
Xa nhau mới chỉ vỏn vẹn có một ngày mờ tưởng chừng như cả năm! Nàng cho Huy biết ngày hôm qua ba chị em nàng đã đi khắp nơi chứa người lánh nạn để tìm song thân, nhưng không có kết quả gì hết.
Hôm đó Huy còn nhớ giờ giới nghiêm là 7 giờ tối, nên chàng không ở gần nàng lâu. Đưa chàng ra cửa nàng trìu mến nhìn chàng rồi hỏi chàng biết làm thơ bao giờ" Chàng cười nhẹ nói rằng chàng đâu biết làm thơ. Nnàng hỏi về mấy câu thơ được viết trên trang đầu trong quyển truyện mà chàng đã tặng nàng:

"Em đã cho tôi bầu trời,
Em đã cho tôi yêu thêm loài người
Vì từ đây tôi có em đời đời "
Huy cho nàng biết đó là lời nhạc của TCS mà chàng thấy hợp với ý nghĩ và tâm tư của chàng đối với nàng nên viết tặng nàng.
Nghe chàng nói như thế nàng nhìn chàng một cách thiết tha rồi hỏi nhẹ có thật không anh" Huy không đáp mà siết chặt bàn tay nàng thêm, như một lời hứa sắt son sẽ có nhau đời đời. Khi chia tay, ngoài đường xe cộ ngược xuôi hối hả đi về một cách ồn ào náo động, nhưng chàng không nghe gì hết ngoài hơi thở của cả hai mà thôi.
Sáng Chủ Nhật 27 tháng tư năm 1975, Huy thức dậy hơi muộn, nhìn đồng hồ đả hơn 10 giờ sáng. Sau khi đi thăm mộ ba chàng ở nghĩa trang Bắc Việt gần Gò Vấp, Huy chạy đến tìm Tùng Linh, định đưa trả lại nàng tấm thẻ sinh viên mà chàng đã quên đưa nàng vào chiều hôm qua. Chàng đã không gặp nàng. Và …. Huy đâu có ngờ rằng chàng đã không gặp nàng mãi mãi !
Qua sáng ngày thứ hai 28 tháng 4 năm 1975, Huy nghe được từ phía dưới đường phố rằng Cộng quân đã tiến đến cầu Hàng Xanh rồi. Vậy là cách nhà Huy không xa lắm. Lòng Huy giao động dữ dội vì chàng đang lo cho Tùng Linh. Chàng vội đi thay áo để đến với nàng, thì nghe tiếng má chàng gọi từ dưới lầu:
- Huy đâu, thay đồ nhanh lên, đi mau.
Từ trên lầu chàng hỏi má:
- Đi đâu, thưa má"
Má chàng quát:
- Đừng có hỏi, nhanh lên, anh chị hai đang chờ ngoài xe.
Huy nhớ rõ hôm đó lúc chui vào chiếc xe của anh chị Hai, Huy nghỉ rằng chỉ là một sự tiễn đưa, từ biệt anh chị và mấy cháu như lần trước, rồi chàng lái xe về cất giữ giùm cho anh chị.
Đường phố kẹt cứng xe, mạnh ai hối hả chạy không còn tuân theo luật lệ gì nữa, ai cũng lo âu Cộng quân sắp vào tới Sài Gòn. Xe của anh chị Huy phải mất hơn tiếng đồng hồ mới đến được phi trường Tân Sơn Nhất. Huy đâu có ngờ rằng khi đến phi trường trưa nay, gia đình Huy được ông xếp Mỹ chở đến một căn phòng to rộng và chàng thấy có khoảng hơn ngàn người đã có mặt ở đây.
Vào đây Huy được má chàng cho biết sáng sớm hôm nay anh rể Huy đến sở làm trong phi trường Tân Sơn Nhất, thì bị ông xếp Mỹ ngạc nhiên hỏi tại sao chưa đi di tản" Anh rể Huy trả lời rằng vì người mẹ không được phép đi theo, thì ông xếp Mỹ nầy nói:
- Bây giờ bạn trở về nhà ngay, tôi sẽ cho tất cả những người thân của bạn đi di tản theo bạn. Và bạn nhớ, tôi chỉ chờ bạn ở đây đến 12 giờ trưa mà thôi.
Má Huy cũng cho chàng biết thêm giờ chót má của người anh rể Huy không chịu đi, muốn ở lại để hy vọng trùng phùng với người chồng đã đi tập kết từ năm 1954. Do đó anh chị chàng năn nỉ má chàng đi theo và má chàng cũng muốn ba anh em chàng cùng đi luôn. Đúng là cái số của Huy bị di tản qua Mỹ và bị xa Tùng Linh!
Hình như trời đổ mưa vào buổi chiều hôm đó, trong phòng lại không có ánh đèn điện, làm tăng nổi thê lương và ảm đạm. Không thấy bóng dáng một người Mỹ nào hết trong căn phòng đợi chờ nầy. Khiến mọi người lo âu thêm bị Mỹ bỏ rơi. Đã thế, khoảng 6 hay 7 giờ tối Cộng quân pháo kíck vào trong phi trường, mọi người bò lê bò lết chui xuống gầm bàn tránh đạn. Nhiều tiếng la thét, kêu réo, khóc lóc vang lên trong đêm tối.
Rất may, đạn đã không rơi vào nơi căn phòng gia đình Huy trú ẩn. Huy cảm thấy nhớ thương và lo lắng cho Tùng Linh quá đỗi.
Qua rạng sáng ngày thứ ba 29 tháng tư năm 1975, mọi người hình như không thể ngủ được chút nào hết. Đã có nhiều người muốn trở về nhà. Huy cũng vậy. Nếu tối qua không bị giờ giới nghiêm thì chàng đã xin phép má chàng để trở về với Tùng Linh. Nhưng những người muốn trở ra phi trường như Huy cũng không thể thực hiện được, vì lệnh nội bất xuất ngoại bất nhập đang thi hành một cách gắt gao. Mọi cổng gác chung quanh phi trường đều đã đóng kín và được canh phòng nghiêm ngặt bởi Quân Cảnh và lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ.Lòng Huy uất nghẹn và điếng đau ghê gớm đã không thể trở ra phi trường như ý muốn và cam đành bất lực cho hoàn cảnh đẩy đưa.
Đến khoảng gần một giờ trưa thì mọi người trông thấy lính Thủy Quân Lục Chiến xuất hiện. Họ giật xuống những cột đèn dây điện, họ phá hủy những hàng rào dây kẽm, họ thu dọn các chướng ngại vật. Lúc ấy ai cũng đều nghỉ chắc chắn rằng đã bị Mỹ bỏ rơi, nên ùn ùn xách hành lý chạy ra khỏi căn phòng đợi chờ mấy ngày qua.
Gia đình Huy cũng chạy ra tìm cổng phi trường trở về nhà, thì bổng nghe loa phát thanh vang lên: Tất cả hãy quay trở lại, ngồi xuống đất có trật tự, sẽ có hàng trăm chiếc trực thăng đáp xuống đây bốc quí vị đi trong vài giờ nữa". Đến giờ mọi người mới chợt hiểu hành động của lính Mỹ cách đây vài giờ. Họ chuẩn bị bãi đáp cho chiến dịch Trực Thăng Vận vào giờ chót bốc người đi di tản.
Loa phát thanh lại được phóng ra lần nữa: "Để cho di tản được nhiều người, yêu cầu mỗi người chỉ mang theo một hành lý xách tay nhỏ đeo trên vai mà thôi".
Khoảng 3 giờ rưỡi trưa, đoàn trực thăng ào ào đáp xuống bãi đất trống, nơi có vài ngàn người đã mỏi mệt chờ đợi mấy ngày qua. Trái với nỗi lo lắng của Huy có sự hỗn độn và chen lấn như đã xảy ra ở phi trường Đà Nẳng, mọi người trên tay một hành lý nhỏ, trật tự xếp hàng một, từ từ tiến đến từng chiếc trực thăng. Huy vẫn còn nhớ chiều hôm đó mây kéo đen bầu trời, rồi cơn mưa đổ ập xuống, từng hạt mưa rơi đầy trên mặt trên môi những người bỏ nước ra đi.
Gia đình Huy xếp hàng gần sau chót, nên đến 7:30 tối mới bước lên trực thăng. Rồi trực thăng vút cao lên không trung, bay khuất thành phố, rồi hạ cánh trên Hạm Đội Bảy của Mỹ ở ngoài khơi Vũng Tàu.
Vào lúc khoảng 10 giờ sáng ngày thứ tư 30 tháng tư năm 1975, Huy cùng với số đông đồng bào trên boong tàu của chiến hạm Okinawa, gục đầu buồn bã nghe Tướng Dương Văn Minh đọc lệnh đầu hàng. Ai cũng bàng hoàng ngạc nhiên sao Sài Gòn mất nhanh quá!
Bỏ mặc nổi cảm xúc kinh hoàng của mọi người, chiến hạm Okinawa tiếp tục lướt sóng. Cho tới hơn hai giờ trưa cùng ngày tất cả người tỵ nạn từ trên chiến hạm được chuyển xuống từng chiếc xuồng nho, đưa đến một chiếc tàu thương mại to lớn, đậu cách chiến hạm Okinawa không xa mấy.
Sau gần hai đêm ba ngày lênh đênh trên biển rộng mênh mông, con tàu thương mại chứa đầy người tỵ nạn cập bến tại đảo Subic Bay xứ Phi Luật Tân. Và sau một đêm tá túc ở đảo Subic Bay, những người tỵ nạn được đưa đến đảo Guam hay đảo Wake bằng các chuyến bay dân sự trước khi chính thức nhập cảnh vào đất Mỹ.

Đã lâu lắm Huy mới thức thật khuya như đêm nay. Một mìnhtrong căn phòng đọc sách ở dưới lầu. Bóng dáng người con gái tuổi đôi mươi mà chàng gặp trong tiệc cưới, bắt chàng hồi tưởng lại những ngày cuối cùng của tháng tư năm 1975.
Người con gái nầy sao giống Tùng Linh quá, nhất là ở cặp mắt đen láy và sâu thẳm. Tấm thẻ sinh viên Văn Khoa niên học 1974-1975 của Tùng Linh mà chàng đã trân quí cất giữ hơn 25 năm qua, hiện đang ở trước mắt Huy.
Nhìn kỹ hình ảnh Tùng Linh trong tấm thẻ sinh viên, Huy biết chàng phải làm gì vào ngày mai. Chàng sẽ tìm ra tông tích cô gái trẻ, không khó khăn lắm. Nếu quả thật nàng là con gái của Tùng Linh, chàng sẽ đến tìm nàng, sẽ kể cho nàng nghe những đột biến bất ngờ đã xảy ra cho chàng vào những ngày cuối cùng của tháng tư đen năm 1975. Rồi sẽ nói những lời tạ lỗi. Và cuối cùng chàng sẽ xin phép nàng cho được tiếp tục cất giữ tấm thẻ sinh viên của nàng năm xưa. Như một kỷ vật quí gia, không bao giờ phai nhòa.  
Quốc Thông

30 tháng 4: Ngày khốn nạn

Vũ Đông Hà (Danlambao) Ba mươi tháng tư. Một buổi tối năm nào ngồi nhậu trước chung cư, lũ chúng tôi cùng nhau say với quá khứ. Tính sổ ra mới biết cuộc đời của mỗi thằng chẳng có gì đáng kể từ cái ngày năm ấy. Bạn tôi say mèm nốc gọn chai bia và đọc hai câu của một nhà thơ nào đó: Chuyến tôi đi xe đò đứt thắng, đ. mẹ đời đ. má tương lai. Mấy mươi năm sau, túm gọn cuộc đời của nhau bằng 2 câu thơ bạn tôi đọc, nhìn thực tại trần ai của đất nước để đo lường giá trị của mốc điểm lịch sử, tôi thấy cái tên gọi mà ôn tôi, một cu li không biết đọc không biết viết, đặt cho nó vào đêm cuối cùng tôi ngồi bên ôn là chính xác: 30 tháng 4 - Ngày Khốn Nạn...

Cuộc đời có nhiều khúc chia ly. Thâm Tâm "đưa người ta không đưa sang sông, sao có tiếng sóng ở trong lòng". Thanh Tâm Tuyền là "thằng điên khùng, ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới". Trịnh Công Sơn có "những hẹn hò từ nay khép lại, thân nhẹ nhàng như mây, chút nắng vàng giờ đây cũng vội, khép lại từng đêm vui"

Lãng mạn hay ngậm ngùi, giây phút giã từ vẫn là điều biết trước. Phần tôi, đã không có một phút chia tay, không một lời đưa tiễn, không một vòng tay. Trưa 2 giờ, "hẹn gặp nhau ngày mai ở lớp học" - cô bạn học trò có đôi mắt người Sơn Tây cười quay đi. Đó là lần cuối tôi nhìn thấy lưng bạn tôi. Đó là buổi sau cùng tôi có các bạn tôi. Đó là ngày chấm dứt thời thơ ấu. Trong một ngày, tôi mất vĩnh viễn một quãng đời đẹp nhất. Không biết trước. Không một lời chia tay. Không bao giờ gặp lại. Trong tôi, hình ảnh những đứa bạn đã dừng lại vĩnh viễn, sống và chết ở ngày ấy. Cho đến bây giờ. 

Mười ba bạn vẫn mười ba
Dù đời nghiệt ngã dù ta đã già
Khói sương nhân ảnh có mờ
Bạn ta, ta giữ một ngày mười ba 

Ngày đó là ngày 9 tháng 3 năm 1975. Hôm sau, Ban Mê Thuột thất thủ. 

Buổi sáng, ôn nội, má tôi cùng đàn con 7 đứa di tản qua nhà chú Kim Liên. Nhà chị mái tôn vách gỗ, ở đây nguy hiểm; anh Hai lại không có nhà - Chú Kim Liên ân cần bảo. Tiếng đại pháo vẫn liên tục ầm ì vọng về từ chiều hôm qua trên thành phố hoang mang. Ba tôi không thấy về từ tiểu khu Mai Hắc Đế. Má tôi âu lo không biết nên đem theo những gì. Ôn tôi làu bàu nhà mình không ở, lại đi đâu. Tôi và lũ em vui mừng vì tự nhiên có một ngày nghỉ học. 1 giờ trưa, mọi toan tính, làu bàu, vui mừng đã chấm dứt khi những viên đạn AK xé nát khung cửa sắt phía trước và bên kia của con đường A Ma Trang Long ngập lửa. Chiến tranh thật sự gõ cửa vào nhà. Chú Kim Liên ngồi co rút dưới chân cầu thang, mặt không còn chút máu, mếu máo khóc. Lần đầu tiên trong đời tôi thấy người lớn sợ hãi hơn tôi. 

Chiều. Im lặng. Dãy nhà bên kia đường đã cháy rụi. Mọi người quyết định kéo nhau về chùa Khải Đoan. Ở chùa vẫn tốt hơn, ôn nói. Đi ngang đường Quang Trung, tôi nhìn thấy chiếc xe tăng áng trước chợ Đê. Hai người lính bộ đội mệt mỏi yên lặng đứng nhìn chúng tôi. Lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy những người phía bên kia. Họ bình thường không hung tợn như hình ảnh tôi có trong đầu qua những sách hình đã xem, những truyện đã đọc. Chú Kim Liên mặt mày lại tái mét, chân đi muốn khụy. 

Tới ngã tư Nguyễn Tri Phương và Phan Bội Châu, má tôi thì thầm vào tai bảo tôi chạy về nhà lấy cái túi má dấu dưới bệ thờ. Không sao đâu ôn… xong con chạy liền tới chùa nghe con. Má tôi nói với ôn và dặn dò tôi. Trên đường về nhà tôi gặp anh Vi trốn lính hàng xóm. Anh đã gần 25, 26 mà khai sinh lúc nào cũng 16. Gần tới nhà thì anh bị chận lại. Mấy năm trốn cảnh sát Cộng hòa, hôm nay anh bị bộ đội cụ Hồ bắt. Anh Vi gỡ gạc chỉ vào tôi nói xạo – chỉ có hai anh em, bắt tui rồi nó sống với ai? Bắt luôn! Trên đường cùng đoàn người bị bắt đi về ngã cầu số 14, anh Vi thì thầm chết cha rồi Cu Em, điệu này giống Phước Long, anh em mình sẽ bị bắt đi lao công chiến trường. Cám ơn anh Vi. Mười ba tuổi, thằng Cu Em trở thành tù binh chiến tranh. Chẳng có dịp nào để trách anh vì 3 năm sau nghe tin anh Vi chết ở Buôn Hô vì bệnh lao. 

Tháng ba, tôi đi qua những hàng cà phê đứng gió. Đôi chân với gai mắc cỡ đâm sâu từ đêm qua vẫn còn râm râm nhức. Tôi đi qua vùng kỷ niệm của những buổi trưa trốn học tiết đầu, rủ nhau đạp xe đạp vào những đồn điền cà phê bắt ve sầu, nằm ngửa mặt đón những tia nước đái giống như mưa phùn của hàng nghìn con ve mà chắc chỉ ở nơi này mới có. 

Buổi chiều cả đoàn được dừng lại nghỉ qua đêm. Bác chủ đồn điền tốt bụng đem gạo và nồi nấu ra cho. Người con gái khoảng cùng tuổi cho tôi một cái mền xanh của quân đội Mỹ. Tôi ôm nồi xuống suối tắm và lấy nước nấu cơm. Vừa kịp vắt xong cái áo thì ầm ầm, tiếng bom như xé nát bên tai. F5 của không quân!. Tiếng người la ơi ới. Chiếc phản lực bay với tốc độ vượt âm thanh nên tiếng bom đến trước tiếng động theo sau. Tôi ôm nồi nước chạy vắt giò lên cổ. Bụi đỏ ngập bầu trời. Không kịp thở tôi về đến chỗ tập trung, nhìn lại nồi nước hình như không đổ một giọt. Sợ đến nỗi chạy trối sống trối chết mà vẫn vô thức giữ cho nồi nước còn nguyên. Lần đầu tiên trong đời, tôi biết thế nào là sợ đến té đái trước biên giới tử sinh. Tôi mất cái áo ở bờ suối. Tối hôm đó, nhớ má quá tôi quyết định trốn về. 

Đi ngang qua nhà số 94 đường Lê Văn Duyệt nhìn vào tôi biết ôn, má và các em tôi không ở đó. Dì Vinh bán bánh căn đầu đường, má thằng Cứt bạn tôi, nói má con lúc ở chùa bả khóc quá chừng khi con bị mất tích. Cả nhà con bây giờ đang ở bên cậu Tương. Dì Vinh lấy một cái áo của thằng Cứt cho tôi mặc. Con ở trần về má con thấy bả còn khóc dữ. Về nhà cậu, má tôi ôm tôi bù lu bù loa. Ôm má, tôi nhìn ôn quẹt nước mắt. Lần đầu tiên trong đời tôi nhìn được giọt nước mắt của ôn. Còn tôi không hiểu sao tôi không có được một giọt nước mắt. Và ba tôi vẫn biệt tăm. 

Ngày hôm sau tôi theo má và ôn đi tìm ba. Con đường dẫn đến trường Trung học Tổng hợp nồng mùi xác chết. Trời Ban Mê giữa trưa tháng ba đã hầm hập gió mùa. Ôn, má và tôi đi suốt từ suối Đốc Học, đến tiểu khu Mai Hắc Đế, về phi trường L19 và dọc theo đường Hùng Vương. Những xác người sình căng giữa ngọ. Những con đường chết với đàn ruồi vo vo bay lên đáp xuống. Mỗi xác chết là mỗi bước phân vân, lưỡng lự. Mỗi xác chết ôn tôi rón rén đến gần nhìn. Mỗi xác chết nằm sấp ôn tôi lật ngữa. Mỗi xác chết ôn tôi cười mếu máo - không phải thằng Hai!. Mỗi xác chết má tôi cười theo sau làn nước mắt. Lần đầu tiên trong đời, tôi cười trên những xác người. 

Một tuần sau ba tôi trở về với chiếc quần xà lỏn và cái áo may ô đen đủi. Đó là hình ảnh cuối cùng của người lính VNCH trong tôi. Ba tôi ôm ôn tôi khóc trước khi ôm má tôi. 

Tháng Tư trở về ngôi nhà hương hỏa
con chó già nằm ngủ thiên thu
Minô, Minô gốc ổi vàng yên giấc
chiếc võng buồn tênh
không người đưa… 

Tôi trở về nhà. Bàn yên, ghế lặng, sách vở nằm im. Mười ba tuổi tôi đã cảm nhận được cuộc bể dâu. Hai anh em sinh đôi thằng Sinh thằng Sáng lớn hơn tôi 3 tuổi đi sùng sục khắp xóm với băng đỏ trên tay. Bác Khuê tài xế sát nhà làm tiệc mời hàng xóm tới nhậu oang oang để mọi người biết bác đang ăn mừng cách mạng về. Nhà thằng Khánh có ba nó làm lớn trong tòa tỉnh trưởng đóng cửa kín bưng. Ba tôi lính quèn nhưng nhờ nhậu giỏi nên quen biết lớn, sau một ngày đi mất tiêu, trở về nhà nói với má tôi chắc cả nhà ông tướng Cảnh, đại tá Quang đã đi rồi. Mình cũng phải đi thôi. Má tôi khóc lóc không biết nên đi hay ở, để lại mệ ngoại cho cậu Tương má không đành. Ngày hôm sau, tin đồn người di tản chết như rươi trên Quốc lộ Số 1 giải quyết mọi đắn đo của má. Còn tôi, tôi ra sau nhà, đào đất chôn Minô dưới gốc ổi. 

Mỗi tối ngồi nghe đài ôn tôi lại mừng rỡ nói với cả nhà: Nha Trang mất. Pleiku mất. Đà Lạt mất… Mỗi địa danh thất thủ là mỗi gánh nhẹ được gỡ bỏ khỏi nỗi lo âu nặng nề của ôn. Ôn nói với má là ôn sợ nếu chỉ có Ban Mê Thuột bị mất giống như Phước Long mấy tháng trước đó thì đời thằng Hai sẽ tàn. Thôi thì mất hết là hết chiến tranh, thằng Hai, thằng Cu Em không phải bị bắt đi lao công chiến trường. Ôn tôi, một người làm cu li cho Tây, không biết đọc, biết viết chỉ nghĩ đơn giản như thế cho kết cục của một cuộc chiến 21 năm. Ngày 30 tháng 4 Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Ôn thở phào nhẹ nhõm. Lúc đó tôi đang ngồi viết lại những tờ khai lý lịch của ôn, ba và má. Mỗi lý lịch khoảng 10 trang. Mỗi người phải có ba bản sao. Tờ nào có một chữ sai phải viết lại cả trang. 

Ngày 30 tháng 4, cả nước lo âu hay cả nước mừng rỡ tôi không biết. Tôi ngồi chửi thề vì phải viết tay gần 100 trang bản khai lý lịch gia đình. 

Sau ngày "giải phóng", má tôi đóng cửa tiệm buôn bán, chia tay đời sống tiểu tư sản và mua lại từ người bạn một đồn điền cà phê nhỏ để góp phần xây dựng đất nước. Má tôi dặn các em tôi ai hỏi phải nói như vậy. Được một năm má gần hết vốn. Cà phê thu hoạch được phải bán cho nhà nước với giá bèo nhưng phân bón phải mua giá chợ đen. Má tôi biểu chặt bớt cà phê để trồng khoai lang và khoai mì. Hì hục chặt được đâu mấy trăm cây thì cán bộ gọi lên phường bắt đóng tiền phạt. Cà phê là tài sản của nhân dân không được phá hoại. Không đủ tiền chăm sóc thì cà phê chết và lại bị phạt, má làm đơn xin dâng đồn điền cho nhà nước. Nhà nước không nhận vì đó là tài sản của nhân dân. 

Một đêm tối, má lặng lẽ dắt các em tôi trốn về Sài Gòn. Ôn về Đà Lạt ở với cô tôi. Ba tôi đi cải tạo vẫn mù tăm. Còn tôi ở lại, lang thang bụi đời và đi buôn lậu cà phê tuyến đường Sài Gòn – Ban Mê Thuột. 

Lần ghé Ấp Ánh Sáng ở Đà Lạt thăm ôn, ôn hỏi bây giờ con làm gì? Dạ con đi buôn cà phê. Ôn nhìn tôi buồn rầu không nói. Đêm tôi chào ôn trước khi về lại Ban Mê, ôn ngồi hút thuốc cẩm lệ và kể cho tôi nghe cuộc đời làm đầy tớ, cu li, thất học của ôn. Kể chuyện đời ôn, nhìn đứa cháu đích tôn buôn lậu bụi đời, ôn nói ngày 30 tháng 4 ôn vui mừng vì chỉ biết lo cho ba con và con, bây giờ ôn mới thấy đó là một ngày khốn nạn. Trước khi tôi đi ôn giúi vào tay tôi chiếc nhẫn vàng hai chỉ và ôn khóc. 

Đó là lần cuối tôi gặp ôn. Hai năm sau, ôn mất. Tôi không về nhìn ôn lần cuối và thắp được nén nhang trước mộ của ôn. Lúc đó, tôi đang bắt chước anh Vi chui nhủi ở Gò Công để trốn nghĩa vụ quân sự. Ngày ôn chết tôi không hay. 

Năm tháng trôi. Người lính VNCH quần xà lỏn áo may ô lần cuối tôi nhìn bây giờ lụ khụ ở nhà giữ cháu cho con. Anh bộ đội cụ Hồ ở chợ Đê ngày ấy bây giờ còn hay mất? Cũng đang lủi thủi giữ cháu như tên lính ngụy cùng thời? Đã qua rồi những nòng súng chĩa vào nhau. Đã mất hút theo thời gian những ngày khói lửa Trường Sơn, Đại lộ Kinh hoàng và Mùa hè Đỏ lửa. Nhưng vẫn còn đó một cuộc chiến tàn khốc giữa độc tài và những kẻ bị trị. Tử vong, tự hủy hoại và mất mát của 45 năm thời bình đã vượt xa nhiều lần so với 21 năm chinh chiến. Đất nước này vẫn triền miên trong một cuộc chiến không bom đạn. 

Gần nửa thế kỷ trôi qua. Những đứa bé ngày xưa bây giờ đã gần nửa đời người. Con đường gian nan tưởng đã chấm dứt từ mù sương năm trước, từ thời đại của thế hệ đàn anh, nay vẫn còn tiếp diễn và kéo dài qua thế hệ đàn em. 

Ba mươi tháng tư. Một buổi tối năm nào ngồi nhậu trước chung cư, lũ chúng tôi cùng nhau say với quá khứ. Tính sổ ra mới biết cuộc đời của mỗi thằng chẳng có gì đáng kể từ cái ngày năm ấy. Bạn tôi say mèm nốc gọn chai bia và đọc hai câu của một nhà thơ nào đó: 

Chuyến tôi đi xe đò đứt thắng
đ. mẹ đời đ. má tương lai. 

Ba mươi tháng tư. Một ngày với nhiều tên gọi. Đại thắng mùa xuân, ngày giải phóng, ngày thống nhất, ngày quốc hận, tháng tư đen... Cuộc chiến không bom đạn lại được thêm giáo thêm gươm bởi những danh xưng định vị tư tưởng và lằn ranh ta-địch. Có nghĩa lý gì về tên gọi cho một ngày của quá khứ trần ai. Tên của nó chỉ chính xác bằng bóng hình qua tấm gương soi của thực tế hiện tại. 

Năm tháng trôi qua dưới lá cờ máu và chân dung lãnh tụ đểu cáng, túm gọn cuộc đời của nhau bằng 2 câu thơ bạn tôi đọc, nhìn thực tại trần ai của đất nước để đo lường giá trị của mốc điểm lịch sử, tôi thấy cái tên gọi mà ôn tôi, một cu li không biết đọc không biết viết, đặt cho nó vào đêm cuối cùng tôi ngồi bên ôn là chính xác: 30 tháng 4 - ngày khốn nạn.



Từ biệt ‘Người tù thế kỷ’ quân nhân VNCH Nguyễn Hữu Cầu

Ông được biết là người bị giam giữ lâu nhất trong nhà tù của chính quyền Việt Nam, từng bị “học cải tạo” hơn 5 năm vì là cựu đại úy quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), và sau đó bị án tù chung thân vì được cho là dùng thơ ca tố cáo các quan chức chính quyền tham nhũng, bao che cho công an phạm tội. Tuy nhiên trước áp lực của cộng đồng quốc tế, đặc biệt từ chính phủ Hoa Kỳ, ông được phóng thích năm 2014.

Ông chính thức bị kết án với tội “phản động,” một cáo buộc nghiêm trọng, đặc biệt là trong thập niên 1980 khi Việt Nam là một quốc gia gần như còn đóng cửa; công tố viên trong phiên tòa xét xử ông là một trong những quan chức mà ông đã tố cáo tham nhũng. Chính quyền địa phương sử dụng các bài hát và bài thơ do ông sáng tác làm bằng chứng cho các hoạt động “phản động” của ông.

Ông là Nguyễn Hữu Cầu, là nhà thơ, nhạc sĩ, người bảo vệ nhân quyền và nhà hoạt động chống tham nhũng.

Gia đình ông cho VOA biết ông qua đời tại quê nhà ở Rạch Giá, Kiên Giang hôm 19/12 và được hỏa táng hôm 22/12, hưởng thọ 76 tuổi.

Ông Trần Ngọc Bích, con trai ông Cầu, nói với VOA:

“Tôi nghĩ ba tôi bị giam như vậy là rất lâu. 37 năm là vừa thời gian cải tạo, vừa thời gian ở tù. Như vậy là quá nữa đời người.

“Như vậy là cả hết tuổi thanh xuân ba ở trong tù. Khi ba ra ngoài cũng chưa được bao lâu.

“Từ lúc ra trại vào năm 2014 đến sau này thì sống trong bệnh tật, mắt bị mờ, bệnh tim, bệnh tiểu đường…đủ thứ bệnh”.

Theo thông tin của tổ chức Văn Bút Quốc tế, ông Nguyễn Hữu Cầu bị công an tỉnh Kiên Giang bắt tại nơi cư trú vào ngày 9/10/1982 vì là tác giả của một bản thảo bài hát và bài thơ “tố cáo” các đảng viên của Đảng Cộng sản cầm quyền tham nhũng ở địa phương này.

Ở mặt sau của những trang trong cuốn sách gốc của mình, ông Nguyễn Hữu Cầu ghi nhận những cáo buộc về hành vi hiếp dâm và hối lộ của hai công an. Tuy nhiên, bản thảo này không được sử dụng làm bằng chứng trong phiên tòa xét xử ông, nhằm bảo vệ hai công an có liên quan. Vào ngày 23/5/1983, ông Cầu bị kết án tử hình vì tội “phản động”, “phá hoại chính sách đoàn kết”, sau đó ông kháng cáo và bản án được giảm xuống tù chung thân.

Ông cương quyết không nhận tội và cùng thân nhân liên tiếp làm đơn kháng cáo nên bản án giảm xuống còn tù chung thân khi xử phúc thẩm năm 1985. Ông được cho là bị biệt giam tại khu giam tù chính trị ở trại tù Z30A Xuân Lộc, Đồng Nai.

Ông Tom Malinowski, cựu Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ, vào năm 2012 gọi ông Nguyễn Hữu Cầu là một trong những “anh hùng thầm lặng”, là một trong những nhà bất đồng chính kiến dũng cảm nhất thế giới đã theo đuổi cuộc chiến chống lại sự bất công mà ít được thế giới bên ngoài chú ý.

Tại một phiên điều trần tại Hạ viện Hoa Kỳ ngày 11/4/2013, ông John Sifton, giám đốc châu Á của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) phát biểu về trường hợp ông Cầu: “Sức khỏe của ông ấy đã xấu đi gần đây”, đồng thời kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ vận động để chính quyền Việt Nam “đảo ngược các cuộc đàn áp của họ và bãi bỏ các luật hà khắc của họ, ít nhất họ cũng đồng ý với chúng tôi rằng các tù nhân rất già hoặc bệnh nặng …sẽ không thể gây ra mối đe dọa nào đối với chính phủ, đảng, hoặc người dân Việt Nam”.

Trước khi Ngoại trưởng Mỹ John Kerry thăm Hà Nội từ ngày 14-17 tháng 12/2013, ông Brad Adams, giám đốc của HRW, viết thư kêu gọi chính phủ Mỹ gây áp lực để chính quyền Việt Nam trả tự do cho ông Nguyễn Hữu Cầu, cùng các tù nhân khác như Nguyễn Văn Hải, Cù Huy Hà Vũ, Mai Thị Dung, và Nguyễn Văn Lý.

Nhưng mãi đến sau khi Thứ trưởng ngoại giao Mỹ Wendy Sherman đến Hà Nội vào tháng 3/2014, thì ông Cầu mới được Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cho “đặc xá”. Ông Cầu được thả vào ngày 23/03/2014.

Trong báo cáo nhân quyền năm 2014, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ghi nhận việc chính quyền Việt Nam đặc xá cho ông Nguyễn Hữu Cầu, trong số tất cả 10 tù nhân lương tâm được phóng thích trước thời hạn. “Chính quyền trả tự do cho 10 tù nhân lương tâm được xét đặc xá. Ngày 21/3, Chủ tịch nước Sang đã đặc xá cho ông Nguyễn Hữu Cầu, một cựu sĩ quan quân đội miền Nam Việt Nam sau khi thụ án 32 năm tù”, báo cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ viết.

Ông Bích cho biết về việc an ninh địa phương theo dõi ba mình sau khi ông được phóng thích.

“Vào năm 2014, 2015, khi ba đi đâu hay làm gì thì cũng có người theo dõi. Cuộc sống cũng hơi bị gò bó, nhưng mãi sau này thì nới lỏng chút xíu”.

Từ San Jose, ông Nguyễn Hữu Nhân, người bạn từng là học viên Khóa 5/68 trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức với ông Cầu, chia sẻ với VOA:

“Cho dù nói bao nhiêu đi chăng nữa cũng không đủ bằng sự can trường của một người bạn của chúng tôi đã ở tù đến 37 năm.

“Chúng tôi có viết một phân ưu gửi đến gia đình anh Cầu. Chúng tôi chỉ ghi là “Anh hùng tử, khí hùng bất tận”.

“Chúng tôi chỉ nói vỏn vẹn như vậy, nhưng chắc quý vị cũng hiểu được rằng sự can trường, sự chịu đựng của anh Cầu trong suốt thời gian đó xứng để để chúng ta tôn vinh anh là Người tù thế kỷ, Người tù bất khuất”.

Cô Trần Phan Yến Nhi, cháu nội ông Cầu, người trước đây viết hàng trăm đơn thư kêu gọi cho ông được ra tù để trị bệnh, chia sẻ với VOA:

“Được mọi người phong cho ông nội là “Người tù thế kỷ” thì như vậy cũng quá đúng đối với ông vì bị giam cầm quá lâu. Khi sống thì ông mang bệnh rất nhiều, còn giờ thì ông đã được giải thoát”.

Ông Cầu là cựu đại úy Địa Phương Quân, quân đội Việt Nam Cộng Hòa, được thả về vào cuối năm 1981, sau hơn 5 năm học tập cải tạo kể từ khi chính quyền mới tiếp quản miền nam Việt Nam năm 1975.

Chính quyền Việt Nam từ trước đến nay bác bỏ việc giam cầm tù nhân lương tâm hay tù nhân chính trị, mà chỉ bắt giam và xét xử những người “vi phạm pháp luật”.

THIẾU SINH QUÂN VIỆT NAM CỘNG HÒA.
THIẾU SINH QUÂN VIỆT NAM CỘNG HÒA ...
Trường Thiếu sinh quân VNCH.... Nơi đã đào tạo cho quân đội mà về sau họ đã trở thành những quân nhân ưu tú, trong đó có các hạ sĩ quan xuất sắc, các sĩ quan chỉ huy giỏi và nổi tiếng (không những là các sĩ quan cấp úy, cấp tá mà còn có cả các tướng lĩnh nữa).. Trường TSQ đã cung cấp cho Quân Lực VNCH hàng ngàn chiến sĩ, nhiều TSQ đã vinh thăng đến tột cùng như Thống Tướng Lê Văn Tỵ, các tướng Nguyễn Văn Vận, Nguyễn Văn Là, Trương Quang Ân, Đoàn Văn Quảng, Lý Tòng Bá, Hoàng Văn Lạc v.v...

Các Thiếu sinh quân đàn anh cấp tá khác giữ chức vụ Sư Đoàn Trưởng, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn ,Trung Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, Hạm Trưởng, Đại Đội Trưởng, Phi công v.v.. nhiều vô số kể.

Năm 1956 Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho qui tụ các trường TSQ Huế, Mỹ Tho, Đông Dương, Ban Mê Thuột lại thành một. Ngài đã chọn một đồn binh Pháp đẹp nhất nước Việt Nam để ân thưởng và đổi tên thành Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu.

Lúc bấy giờ người Mỹ không muốn chu cấp ngân khoản cho trường TSQ, nhưng Tổng Thống Ngô Đình Diệm nhất định trích ngân khoản Quốc Gia để tài trợ nuôi nấng TSQ. Suy nghĩ cho cùng mới thấy Tổng Thống Ngô Đình Diệm quả rất anh minh và thâm thúy trong việc ban thưởng trọng hậu trường TSQ Vũng Tàu cho miền Nam Việt-Nam nói chung và cho Quân đội VNCH nói riêng.

Thiếu sinh quân VNCH đã để lại nhiều hình ảnh rất đẹp trong huy hiệu, ý nghĩa của nó, trong tác phong và trong những sinh hoạt rèn luyện chuẩn bị để vào các trường Hạ Sĩ Quan, Sĩ Quan, hay các Đại học sau này.

Có lẽ trong chúng ta đã có nhiều người đọc được nhiều bài viết về cuộc chiến đấu Bi Hùng của Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu Tháng 4 1975. Đó là cuộc chống trả của các THIẾU SINH QUÂN ở Vũng Tàu trong đêm 29 và gần trọn ngày 30-4-75, khi cộng quân xâm nhập và chiếm đóng các vị trí trọng yếu trong Thị Xã Vũng Tàu coi như bỏ ngỏ và rơi vào tay cộng quân.

Ngoại trừ một cứ điểm duy nhất còn chống cự do những thiếu niên tuổi 12, 13… đến 17 tự lập phòng tuyến quyết tâm tử thủ. Cứ điểm đó là trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu và những chiến sĩ gan dạ anh hùng đó là những Thiếu sinh quân trẻ của trường.

Địch đã tung hai tiểu đoàn xung kích bao vây cứ điểm cuối cùng này nhưng chúng đã gặp phải một lực lượng vũ trang đáng kể hiên ngang đương đầu với chúng. Cộng sản đã coi thường những chú lính sữa chưa bao giờ biết mùi trận mạc. Chúng bắt loa kêu gọi các em đầu hàng và buông lời hăm doạ… Tiếng loa vừa dứt, Viêt Cộng nhận ngay một tràng đại liên thay cho câu trả lời, gọn gàng và cương quyết của gần 700 tay súng tí hon.

Tiếp theo là hàng trăm mũi súng nhắm thẳng vào bọn VC bên ngoài, phẫn nộ lảy cò. Vài tên Bộ Đội bị đốn ngã ngay trong loạt đạn đầu tiên. Bọn Việt Cộng phải đứng khựng lại trước tinh thần quyết tử của 700 hậu duệ anh hùng Trần Quốc Toản. Chúng không giám tấn công ngay vì các em quá nhỏ và vì có sự hiện diện của đồng bào.

Mặc VC kêu gọi và đe doạ, Thiếu Sinh Quân vẫn kiên trì tử thủ, khiêng chướng ngại vật làm lũy phòng ngự, tổ chức giao liên, tiếp tế đạn dược, nước uống và lương khô, cứu thương và cứu hoả… Anh lớn chỉ huy các em nhỏ, áp dụng tuyệt vời những bài học quân sự và kỹ thuật tác chiến đã được giảng dậy ở quân trường.

Sáng ngày 30-4. Cộng quân ra lệnh gọi đầu hàng lần chót nhưng các chiến sĩ tí hon vẫn kiên quyết kháng cự, trả lời chúng bằng những loạt đạn dữ dội hơn. VC nổi cơn khát máu. Chúng khai hoả, mở cuộc tấn công ào ạt mong giải quyết chiến trường nhanh chóng.

Nhưng chúng phải lập tức dội ngược lại, không ngờ sức chống cự quá mãnh liệt và hoả lực từ bên trong bắn ra vô cùng chính xác vào những bia sống, những cái bia người “SINH BẮC TỬ NAM”. Các TSQ chưa bao giờ được bắn, nay các TSQ đã bắn với tất cả căm thù, mong dành lại những gì sắp bị cướp mất.

Đây là trận đánh thực sự đầu tiên và cũng là trận đánh cuối cùng của các TSQ còn đang giở khoá học. Trận đánh QUYẾT TỬ đã đi vào lịch sử. Các Thiếu Sinh Quân đã chiến đấu không nao núng dù có nhiều em ngã gục. Những đứa con bé bỏng của quê hương đã chết trong giờ phút cuối cùng của miền Nam, khi tóc còn xanh, mộng đời chưa trọn.

Các Thiếu Sinh Quân chiến đấu với tất cả nhiệt tình và sinh lực của tuổi trẻ hăng say hào hứng như đang tham dự một trò chơi lớn. Cuộc chống cự kéo dài đến 30-04 chiều. Cho đến khi kho đạn dược đã cạn và kho lương thực bị bốc cháy, các Thiếu Sinh Quân mới bằng lòng cho VC thương thảo. Họ đòi hỏi VC chấp nhận một giờ ngưng bắn, sau đó sẽ buông súng và mở cổng…

Và các TSQ đã dùng một giờ ngưng bắn để thu dọn chiến trường, săn sóc đồng đội bị thương, gói liệm thi hài những vị tiểu anh hùng đã gục ngã, và chuẩn bị làm lễ hạ kỳ. Họ KHÔNG ĐỂ CHO BỌN CS làm nhục lá cờ VÀNG BA SỌC ĐỎ, lá cờ biểu tượng thiêng liêng gói ủ hồn dân tộc mà họ đã thề nguyền PHẢI THƯƠNG YÊU và BẢO VỆ.

Có chừng hơn một Trung Đội TSQ đã tập họp trước sân cờ, đứng trang nghiêm và thành kính nhìn lên lá Quốc Kỳ còn nguyên vẹn màu tươi thắm bay phất phới trên nền mây xanh, các TSQ đứng nghiêm trước kỳ đài theo lễ nghi quân cách, dơ tay chào.

Tất cả TSQ từ trong các tầng lầu, từ các hố cá nhân, các giao thông hào, sau những gốc cây, bờ tường, sau những mái nhà…., không ai bảo ai, đồng loạt đứng bật dậy đồng thanh cất tiếng hát bài quốc ca. Họ từ từ nắm từng nấc giây, cho lá cờ hạ xuống thật chậm và từ tốn như cố kéo dài giây phút thiêng liêng cảm động này, nước mắt đầm đìa. Gần 700 giọng hát hùng tráng cất lên, vang khắp sân trường. Tiếng hát phủ tràn trên tuyến địch vang đến tận bến Dâu, bến Đình…

Mọi người dân Vũng Tàu đã đều nghe và rung động. Tiếng hát bay ra biển khơi, bay lên trời cao, âm thanh lồng lộng theo gió chiều, đất trời cùng ngẩn ngơ rớm lệ theo tiếng hát.Các Thiếu Sinh Quân đã làm lễ mai táng đất nước, đã TRANG NGHIÊM RỬA SẠCH tấm bia DANH DỰ của QLVNCH, đã vuốt mắt cho Mẹ Việt Nam yên nghỉ qua lễ hạ kỳ lần cuối chỉ một không hai này.

Họ hát bằng tiếng nấc thê lương và phẫn uất từ sâu thẳm trái tim, với những nghẹn ngào cùng dàn dụa của nước mắt đau thương của họ và của đồng bào miền Nam. Thời gian như ngưng đọng lại trong giờ khắc thiêng liêng và bi thảm, xúc động cùng lẫm liệt đó vẫn còn trong ký ức của những chiến sĩ tí hon oai hùng.

Ngày nay. ... Lịch sử đã sang trang... Hơn 44 năm, một phần tư thế kỷ đã trôi qua. .. tuy nhiên, trong lòng thế hệ hậu duệ VNCH và hậu thế con cháu, những hình ảnh hào hùng của những Thiếu Sinh Quân trong trận đánh giữ trường lịch sử mãi mãi sẽ không bao giờ phai nhạt. Tổ Quốc sẽ ghi danh trong quân sử những người con Thiếu Sinh Quân vũ dũng, kiêu hùng đã viết nên thiên anh hùng ca bất khuất cho Quân Lực Việt-Nam Cộng Hòa.

* Lưu ý hình 4: Ý nghĩa trên phù hiệu trường Thiếu sinh quân VNCH:
-Thanh kiếm bạc: Biểu dương tinh thần thượng võ, dũng cảm và uy quyền của người chỉ huy
-Nền trời màu xanh, màu trẻ trung, hy vọng và đầy nhiệt huyết
-Ba chữ Nhân, Trí, Dũng:
-Nhân: Là một đạo đức lớn bao trùm trên hết các đạo làm người
-Trí: Là óc thông minh biết xét đoán người và việc
-Dũng: Là sự can trường, đảm lược.
Tóm lại: Nhân, Trí, Dũng là sống làm sao cho đúng ĐẠO LÀM NGƯỜI

Sài Gòn giải phóng tôi

Nguyễn Quang Lập - Mãi tới ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi mới biết thế nào là ngày sinh nhật. Quê tôi người ta chỉ quan tâm tới ngày chết, ngày sinh nhật là cái gì rất phù phiếm. Ngày sinh của tôi ngủ yên trong học bạ, chỉ được nhắc đến mỗi kì chuyển cấp. Từ thuở bé con đến năm 19 tuổi chẳng có ai nhắc tôi ngày sinh nhật, tôi cũng chẳng quan tâm. Đúng ngày “non sông thu về một mối” tôi đang học Bách Khoa Hà Nội, cô giáo dạy toán xác suất đã cho hay đó cũng là ngày sinh nhật của tôi. Thật không ngờ. Tôi vui mừng đến độ muốn bay vào Sài Gòn ngay lập tức, để cùng Sài Gòn tận hưởng “Ngày trọng đại”.

Kẹt nỗi tôi đang học, ba tôi không cho đi. Sau ngày 30 tháng 4 cả nhà tôi đều vào Sài Gòn, trừ tôi. Ông bác của tôi dinh tê vào Sài Gòn năm 1953, làm ba tôi luôn ghi vào lý lịch của ông và các con ông hai chữ “đã chết”, giờ đây là triệu phú số một Sài Gòn. Ba tôi quá mừng vì ông bác tôi còn sống, mừng hơn nữa là “triệu phú số một Sài Gòn”. Ông bác tôi cũng mừng ba tôi hãy còn sống, mừng hơn nữa là “gia đình bảy đảng viên cộng sản”. Cuộc đoàn tụ vàng ròng và nước mắt. Ông bác tôi nhận nước mắt đoàn viên bảy đảng viên cộng sản, ba tôi nhận hơn hai chục cây vàng đem ra Bắc trả hết nợ nần còn xây được ngôi nhà ngói ba gian hai chái. Sự đổi đời kì diệu.

Dù chưa được vào Sài Gòn nhưng tôi đã thấy Sài Gòn qua ba vật phẩm lạ lùng, đó là bút bi, mì tôm và cassette của thằng Minh cùng lớp, ba nó là nhà thơ Viễn Phương ở Sài Gòn gửi ra cho nó. Chúng tôi xúm lại quanh thằng Minh xem nó thao tác viết bút bi, hồi đó gọi là bút nguyên tử. Nó bấm đít bút cái tách, đầu bút nhô ra, và nó viết. Nét mực đều tăm tắp, không cần chấm mực không cần bơm mực, cứ thế là viết. Chúng tôi ai nấy há hốc mồm không thể tin nổi Sài Gòn lại có thể sản xuất được cái bút tài tình thế kia.
< iframe id="aswift_2" name="aswift_2" browsingtopics="true" sandbox="allow-forms allow-popups allow-popups-to-escape-sandbox allow-same-origin allow-scripts allow-top-navigation-by-user-activation" width="600" height="0" frameborder="0" marginwidth="0" marginheight="0" vspace="0" hspace="0" allowtransparency="true" scrolling="no" allow="attribution-reporting; run-ad-auction" src="https://googleads.g.doubleclick.net/pagead/ads?gdpr=0&client=ca-pub-4086780709791951&output=html&h=280&adk=1709795551&adf=516564093&pi=t.aa~a.628122366~i.11~rp.4&w=600&abgtt=7&fwrn=4&fwrnh=100&lmt=1745056855&num_ads=1&rafmt=1&armr=3&sem=mc&pwprc=2913710886&ad_type=text_image&format=600x280&url=https%3A%2F%2Fdanlambaovn.blogspot.com%2F2016%2F04%2Fsai-gon-giai-phong-toi.html&host=ca-host-pub-1556223355139109&fwr=0&pra=3&rh=150&rw=600&rpe=1&resp_fmts=3&wgl=1&fa=27&uach=WyJXaW5kb3dzIiwiMTAuMC4wIiwieDg2IiwiIiwiMTE3LjAuNTQwOC4xOTciLG51bGwsMCxudWxsLCI2NCIsW1siTm90IEEoQnJhbmQiLCI4LjAuMC4wIl0sWyJDaHJvbWl1bSIsIjEzMi4wLjY4MzQuMjEwIl0sWyJPcGVyYSIsIjExNy4wLjU0MDguMTk3Il1dLDBd&dt=1745763503736&bpp=4&bdt=601&idt=-M&shv=r20250423&mjsv=m202504220101&ptt=9&saldr=aa&abxe=1&cookie=ID%3Dd2d151018318136b%3AT%3D1745762718%3ART%3D1745763465%3AS%3DALNI_Mbgs1GvJWdDBbXwzry3YlR7W6PbTA&gpic=UID%3D00001013eef0aa7d%3AT%3D1745762718%3ART%3D1745763465%3AS%3DALNI_MYGyp5fTiwTH3dYYmsh2PGPyZRRFA&eoidce=1&prev_fmts=0x0%2C468x60&nras=2&correlator=2311047531195&frm=20&pv=1&u_tz=-240&u_his=5&u_h=1080&u_w=1920&u_ah=1040&u_aw=1920&u_cd=24&u_sd=1&dmc=8&adx=366&ady=1073&biw=1851&bih=920&scr_x=0&scr_y=0&eid=95358863%2C95358865%2C95354562%2C95358975%2C95359237%2C95359117%2C95356809%2C95359272&oid=2&pvsid=7867485952374430&tmod=1725980690&uas=0&nvt=1&ref=https%3A%2F%2Fdanlambaovn.blogspot.com%2F&fc=1408&brdim=0%2C0%2C0%2C0%2C1920%2C0%2C1920%2C1040%2C1866%2C920&vis=1&rsz=%7C%7Cs%7C&abl=NS&fu=128&bc=31&bz=1.03&td=1&tdf=2&psd=W251bGwsbnVsbCxudWxsLDNd&nt=1&ifi=3&uci=a!3&btvi=2&fsb=1&dtd=148" data-google-container-id="a!3" tabindex="0" title="Advertisement" aria-label="Advertisement" data-google-query-id="CMjY7euz-IwDFWNcRwEd0Do0FQ" data-load-complete="true" style="border-width: 0px; border-style: initial; padding: 0px; vertical-align: baseline; max-width: 99%; left: 0px; position: absolute; top: 0px; width: 600px; height: 0px;">< /iframe>

Tối hôm đó thằng Mình bóc gói mì tôm bỏ vào bát. Tưởng đó là lương khô chúng tôi không chú ý lắm. Khi thằng Minh đổ nước sôi vào bát, một mùi thơm rất lạ bốc lên, hết thảy chúng tôi đều nuốt nước bọt, đứa nào đứa nấy bỗng đói cồn cào. Thằng Minh túc tắc ăn, chúng tôi vừa nuốt nước bọt vừa cãi nhau. Không đứa nào tin Sài Gòn lại có thể sản xuất được đồ ăn cao cấp thế kia. Có đứa còn bảo đồ ăn đổ nước sôi vào là ăn được ngay, thơm ngon thế kia, chỉ giành cho các du hành vũ trụ, người thường không bao giờ có. 

Thằng Minh khoe cái cassette ba nó gửi cho nó để nó học ngoại ngữ. Tới đây thì tôi bị sốc, không ngờ nhà nó giàu thế. Với tôi cassette là tài sản lớn, chỉ những người giàu mới có. Năm 1973 quê tôi lần đầu xuất hiện một cái cassette của một người du học Đông Đức trở về. Cả làng chạy đến xem máy ghi âm mà ai cũng đinh ninh đó là công cụ hoạt động tình báo. Suốt mấy ngày liền, dân làng tôi say sưa nói vào máy ghi âm rồi bật máy nghe tiếng của mình. Tôi cũng được nói vào máy ghi âm và thật vọng vô cùng không ngờ tiếng của tôi lại tệ đến thế. Một ngày tôi thấy tài sản lớn ấy trong tay một sinh viên, không còn tin vào mắt mình nữa. Thằng Minh nói, rẻ không à. Thứ này chỉ ghi âm, không có radio, giá hơn chục đồng thôi, bán đầy chợ Bến Thành. Không ai tin thằng Minh cả. Tôi bỉu môi nói với nó, cứt! Rứa Sài Gòn là tây à? Thằng Mình tủm tỉm cười không nói gì, nó mở casette, lần đầu tiên chúng tôi được nghe nhạc Sài Gòn, tất cả chết lặng trước giọng ca của Khánh Ly trong Sơn ca 7. Kết thúc Sơn ca 7 thằng Hoan bỗng thở hắt một tiếng thật to và kêu lên, đúng là tây thật bay ơi! 
< iframe id="aswift_3" name="aswift_3" browsingtopics="true" sandbox="allow-forms allow-popups allow-popups-to-escape-sandbox allow-same-origin allow-scripts allow-top-navigation-by-user-activation" width="600" height="0" frameborder="0" marginwidth="0" marginheight="0" vspace="0" hspace="0" allowtransparency="true" scrolling="no" allow="attribution-reporting; run-ad-auction" src="https://googleads.g.doubleclick.net/pagead/ads?gdpr=0&client=ca-pub-4086780709791951&output=html&h=280&adk=1709795551&adf=4146479416&pi=t.aa~a.628122366~i.19~rp.4&w=600&abgtt=7&fwrn=4&fwrnh=100&lmt=1745056855&num_ads=1&rafmt=1&armr=3&sem=mc&pwprc=2913710886&ad_type=text_image&format=600x280&url=https%3A%2F%2Fdanlambaovn.blogspot.com%2F2016%2F04%2Fsai-gon-giai-phong-toi.html&host=ca-host-pub-1556223355139109&fwr=0&pra=3&rh=150&rw=600&rpe=1&resp_fmts=3&wgl=1&fa=27&uach=WyJXaW5kb3dzIiwiMTAuMC4wIiwieDg2IiwiIiwiMTE3LjAuNTQwOC4xOTciLG51bGwsMCxudWxsLCI2NCIsW1siTm90IEEoQnJhbmQiLCI4LjAuMC4wIl0sWyJDaHJvbWl1bSIsIjEzMi4wLjY4MzQuMjEwIl0sWyJPcGVyYSIsIjExNy4wLjU0MDguMTk3Il1dLDBd&dt=1745763503736&bpp=1&bdt=602&idt=-M&shv=r20250423&mjsv=m202504220101&ptt=9&saldr=aa&abxe=1&cookie=ID%3Dd2d151018318136b%3AT%3D1745762718%3ART%3D1745763465%3AS%3DALNI_Mbgs1GvJWdDBbXwzry3YlR7W6PbTA&gpic=UID%3D00001013eef0aa7d%3AT%3D1745762718%3ART%3D1745763465%3AS%3DALNI_MYGyp5fTiwTH3dYYmsh2PGPyZRRFA&eoidce=1&prev_fmts=0x0%2C468x60%2C600x280&nras=3&correlator=2311047531195&frm=20&pv=1&u_tz=-240&u_his=5&u_h=1080&u_w=1920&u_ah=1040&u_aw=1920&u_cd=24&u_sd=1&dmc=8&adx=366&ady=1882&biw=1851&bih=920&scr_x=0&scr_y=0&eid=95358863%2C95358865%2C95354562%2C95358975%2C95359237%2C95359117%2C95356809%2C95359272&oid=2&pvsid=7867485952374430&tmod=1725980690&uas=0&nvt=1&ref=https%3A%2F%2Fdanlambaovn.blogspot.com%2F&fc=1408&brdim=0%2C0%2C0%2C0%2C1920%2C0%2C1920%2C1040%2C1866%2C920&vis=1&rsz=%7C%7Cs%7C&abl=NS&fu=128&bc=31&bz=1.03&td=1&tdf=2&psd=W251bGwsbnVsbCxudWxsLDNd&nt=1&ifi=4&uci=a!4&btvi=3&fsb=1&dtd=163" data-google-container-id="a!4" tabindex="0" title="Advertisement" aria-label="Advertisement" data-google-query-id="CMDP7uuz-IwDFSxORwEdVXwe-g" data-load-complete="true" style="border-width: 0px; border-style: initial; padding: 0px; vertical-align: baseline; max-width: 99%; left: 0px; position: absolute; top: 0px; width: 600px; height: 0px;">< /iframe>

Sài Gòn là tây, điều đó hấp dẫn tôi đến nỗi đêm nào tôi cũng mơ tới Sài Gon. Kì nghỉ hè năm sau, tháng 8 năm 1976, tôi mới được vào Sài Gòn. Ba tôi vẫn bắt tôi không được đi đâu, “ở nhà học hành cho tử tế”, nhưng tôi đủ lớn để bác bỏ sự ngăn cấm của ông. Hơn nữa cô họ tôi rất yêu tôi, đã cho người ra Hà Nội đón tôi vào. Xe chạy ba ngày ba đêm tôi được gặp Sài Gòn.

Tôi sẽ không kể những gì lần đầu tôi thấy trong biệt thự của ông bác tôi, từ máy điều hòa, tủ lạnh, ti vi tới xe máy, ô tô, cầu thang máy và bà giúp việc tuổi năm mươi một mực lễ phép gọi tôi bằng cậu. Ngay mấy cục đá lạnh cần lúc nào có ngay lúc đó cũng đã làm tôi thán phục lắm rồi. Thán phục chứ không ngạc nhiên, vì đó là nhà của ông triệu phú. Xin kể những gì buổi sáng đầu tiên tôi thực sự gặp gỡ Sài Gòn.

Khấp khởi và hồi hộp, rụt rè và cảnh giác tôi bước xuống lòng đường thành phố Sài Gòn và gặp ngay tiếng dạ ngọt như mía lùi của bà bán hàng tạp hóa đáng tuổi mạ tôi. Không nghĩ tiếng dạ ấy dành cho mình, tôi ngoảnh lại sau xem bà chủ dạ ai. Không có ai. Thì ra bà chủ dạ khách hàng, điều mà tôi chưa từng thấy. Quay lại thấy nụ cười bà chủ, nụ cười khá giả tạo. Cả tiếng dạ cũng giả tạo nhưng với tôi là trên cả tuyệt vời. Từ bé cho đến giờ tôi toàn thấy những bộ mặt lạnh lùng khinh khỉnh của các mậu dịch viên, luôn coi khách hàng như những kẻ làm phiền họ. Lâu ngày rồi chính khách hàng cũng tự thấy mình có lỗi và chịu ơn các mậu dịch viên. Nghe một tiếng dạ, thấy một nụ cười của các mậu dịch viên dù là giả tạo cũng là điều không tưởng, thậm chí là phi lí.
< iframe id="aswift_4" name="aswift_4" browsingtopics="true" sandbox="allow-forms allow-popups allow-popups-to-escape-sandbox allow-same-origin allow-scripts allow-top-navigation-by-user-activation" width="600" height="0" frameborder="0" marginwidth="0" marginheight="0" vspace="0" hspace="0" allowtransparency="true" scrolling="no" allow="attribution-reporting; run-ad-auction" src="https://googleads.g.doubleclick.net/pagead/ads?gdpr=0&client=ca-pub-4086780709791951&output=html&h=280&adk=1709795551&adf=1040207220&pi=t.aa~a.628122366~i.31~rp.4&w=600&abgtt=7&fwrn=4&fwrnh=100&lmt=1745056855&num_ads=1&rafmt=1&armr=3&sem=mc&pwprc=2913710886&ad_type=text_image&format=600x280&url=https%3A%2F%2Fdanlambaovn.blogspot.com%2F2016%2F04%2Fsai-gon-giai-phong-toi.html&host=ca-host-pub-1556223355139109&fwr=0&pra=3&rh=150&rw=600&rpe=1&resp_fmts=3&wgl=1&fa=27&uach=WyJXaW5kb3dzIiwiMTAuMC4wIiwieDg2IiwiIiwiMTE3LjAuNTQwOC4xOTciLG51bGwsMCxudWxsLCI2NCIsW1siTm90IEEoQnJhbmQiLCI4LjAuMC4wIl0sWyJDaHJvbWl1bSIsIjEzMi4wLjY4MzQuMjEwIl0sWyJPcGVyYSIsIjExNy4wLjU0MDguMTk3Il1dLDBd&dt=1745763503736&bpp=2&bdt=602&idt=2&shv=r20250423&mjsv=m202504220101&ptt=9&saldr=aa&abxe=1&cookie=ID%3Dd2d151018318136b%3AT%3D1745762718%3ART%3D1745763465%3AS%3DALNI_Mbgs1GvJWdDBbXwzry3YlR7W6PbTA&gpic=UID%3D00001013eef0aa7d%3AT%3D1745762718%3ART%3D1745763465%3AS%3DALNI_MYGyp5fTiwTH3dYYmsh2PGPyZRRFA&eoidce=1&prev_fmts=0x0%2C468x60%2C600x280%2C600x280&nras=4&correlator=2311047531195&frm=20&pv=1&u_tz=-240&u_his=5&u_h=1080&u_w=1920&u_ah=1040&u_aw=1920&u_cd=24&u_sd=1&dmc=8&adx=366&ady=2714&biw=1851&bih=920&scr_x=0&scr_y=0&eid=95358863%2C95358865%2C95354562%2C95358975%2C95359237%2C95359117%2C95356809%2C95359272&oid=2&pvsid=7867485952374430&tmod=1725980690&uas=0&nvt=1&ref=https%3A%2F%2Fdanlambaovn.blogspot.com%2F&fc=1408&brdim=0%2C0%2C0%2C0%2C1920%2C0%2C1920%2C1040%2C1866%2C920&vis=1&rsz=%7C%7Cs%7C&abl=NS&fu=128&bc=31&bz=1.03&td=1&tdf=2&psd=W251bGwsbnVsbCxudWxsLDNd&nt=1&ifi=5&uci=a!5&btvi=4&fsb=1&dtd=172" data-google-container-id="a!5" tabindex="0" title="Advertisement" aria-label="Advertisement" data-google-query-id="CIiY7-uz-IwDFTRPRwEdxSkMuQ" data-load-complete="true" style="border-width: 0px; border-style: initial; padding: 0px; vertical-align: baseline; max-width: 99%; left: 0px; position: absolute; top: 0px; width: 600px; height: 0px;">< /iframe>

Tôi mua ba chục cái bút bi về làm quà cho bạn bè. Bà chủ lấy dây chun bó bút bi và cho vào túi nilon, chăm chút cẩn thận cứ như bà đang gói hàng cho bà chứ không phải cho tôi. Không một mậu dịch viên nào, cả những bà hàng xén quê tôi, phục vụ khách hàng được như thế, cái túi nilon gói hàng càng không thể có. Ai đòi hỏi khách hàng dây chun buộc hàng và túi nilon đựng hàng sẽ bắt gặp cái nhìn khinh bỉ, vì đó là đòi hỏi của một kẻ không hâm hấp cũng ngu đần. Giờ đây bà chủ tạp hóa Sài Gòn làm điều đó hồn hậu như một niềm vui của chính bà, khiến tôi sửng sốt.

Cách đó chưa đầy một tuần, ở Hà Nội tôi đi sắp hàng mua thịt cho anh cả. Cô mậu dịch viên hất hàm hỏi tôi, hết thịt, có đổi thịt sang sườn không? Dù thấy cả một rổ thịt tươi dưới chân cô mậu dịch viên tôi vẫn đáp, dạ có! Tranh cãi với các mậu dịch viên là điều dại dột nhất trần đời. Cô mậu dịch viên ném miếng sườn heo cho tôi. Cô ném mạnh quá, miếng sườn văng vào tôi. Tất nhiên tôi không hề tức giận, tôi cảm ơn cô đã bán sườn cho tôi và vui mừng đã chụp được miếng sườn, không để nó rơi xuống đất. Kể vậy để biết vì sao bà chủ tạp hóa Sài Gòn đã làm tôi sửng sốt. 

Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn. Uống cà phê để biết, cũng là để ra dáng ta đây dân Sài Gòn. Ở Hà Nội tôi chỉ quen chè chén, không dám uống cà phê vì nó rất đắt. Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ nhâm nhi cốc cà phê đen đá pha sẵn, hút điếu thuốc Captain, tự thấy mình lên hẳn mấy chân kính. Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê. Biết mình sắp bị ăn chửi và phải đền tiền ly cà phê mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ lựng. Cô bé phục vụ chạy tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh mảnh vỡ thủy tinh với một thái độ như chính cô là người có lỗi. Cô thay cho tôi một ly cà phê mới nhẹ nhàng như một lẽ đương nhiên. Tôi thêm một lần sửng sốt.

Một giờ sau tôi quay về nhà ông bác, phát hiện sau nhà là một con hẻm đầy sách. Con hẻm ngắn, rộng rãi. Tôi không nhớ nó có tên đường hay không, chỉ nhớ rất nhiều cây cổ thụ tỏa bóng sum sê, hai vỉa hè đầy sách. Suốt buổi sáng hôm đó tôi tha thẩn ở đây. Quá nhiều sách hay, tôi không biết nên bỏ cuốn gì mua cuốn gì. Muốn mua hết phải chất đầy vài xe tải. Giữa hai vỉa hè mênh mông sách đó, có cả những cuốn sách Mác – Lê. Cuốn Tư Bản Luận của Châu Tâm Luân và Hành trình trí thức của Karl Marx của Nguyễn Văn Trung cùng nhiều sách khác. Thoạt đầu tôi tưởng sách từ Hà Nôi chuyển vào, sau mới biết sách của Sài Gòn xuất bản từ những năm sáu mươi. Tôi hỏi ông chủ bán sách, ở đây người ta cũng cho in sách Mác - Lê à? Ông chủ quán vui vẻ nói, dạ chú. Sinh viên trong này học cả Mác - Lê. Tôi ngẩn ngơ cười không biết nói gì hơn. 

Chuyện quá nhỏ, với nhiều người là không đáng kể, với tôi lúc đó thật khác thường, nếu không muốn nói thật lớn lao. Tôi không cắt nghĩa được đó là gì trong buổi sáng hôm ấy. Tôi còn ở lại Sài Gòn thêm 30 buổi sáng nữa, vẫn không cắt nghĩa được đó là gì. Nhưng khi quay ra Hà Nội tôi bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, đọc khác đi, nói khác đi. Bạn bè tôi ngày đó gọi tôi là thằng hâm, thằng lập dị. Tôi thì rất vui vì biết mình đã được giải phóng.  Nguyễn Quang Lập   

Những Chiến Tích của QLVNCHMẶT TRẬN BAN MÊ THUỘTphamvanphu
MẶT TRẬN BAN MÊ THUỘT

Phạm Huấn
Lịch sử Việt Nam qua ảnh - Thiếu Tướng ...

Thiếu Tướng Phạm Văn Phú
Ngày 9 tháng 3, 1975.Đó là một ngày Chúa Nhật. Sau bốn ngày tại mặt trận Bình Định, mãi tối mịt hôm trước chúng tôi mới về tới Nha Trang. Và chúng tôi vừa chết hụt khi chiếc trực thăng hầu như mất thăng bằng trong những cơn lốc xoáy, lúc bay ngang qua Vũng Rô gần Tuy Hòa.

Khi chuông điện thoại reo lên, nhìn đồng hồ mới 8 giờ sáng, mắt tôi cay xè và thật khó chịu. Giọng nói quen thuộc của Tân, một Sĩ quan Tùy viên khác ở Nha Trang, và cũng là em vợ Tướng Phú vang lên từ đầu giây bên kia:– Ông Tướng mời anh vào bay gấp!Ngừng lại một giây, Tân nói tiếp:– Nhưng ông ấy mới chuẩn bị ăn sáng. Chừng 15 phút nữa anh ra thẳng phi trường, tôi lái xe về cho. Ông Tướng bay C-47, tầu bay đậu ở khu VIP bên dân sự!
Và Tân cúp máy.

Tôi linh cảm thấy một chuyện gì quan trọng sắp sửa xảy ra. Tình hình quân sự tại chiến trương Cao nguyên sau khi Phước Long mất thật nghiêm trọng. Các quốc lộ huyết mạch 19, 21 nối liền Cao nguyên và Duyên hải đã bị cắt nhiều đoạn. Tỉnh Quảng Đức đang bị đe dọa nặng. Tại mặt trận Bình Định, các đơn vị của Sư đoàn 22 Bộ binh gần như quần thảo hàng ngày với Sư đoàn 3 Sao Vàng của Công Sản Bắc Việt. Mặt trận Nam Pleiku, Bộ Tư lệnh Hành quân của Sư đoàn 23 Bộ binh bị pháo liên miên.

Nghe tiếng sóng biển, nhìn qua cửa sổ của chiếc trailer, tôi thấy chân trời xa tít, và nắng lên thật đẹp. Tôi bước ra ngoài. Trước khi lái xe ra phi trường, tôi đã để ra giây phút nhìn cái trailer nằm sát biển Nha Trang, vì tự nhiên linh cảm rằng sẽ chẳng bao giờ trở lại đây nữa. Cái trailer, hay đúng hơn là nơi nghỉ mát của một viên cố vấn Mỹ trước kia, ông Tướng Tư lệnh phó đặc trách bình định phát triển, ông Tỉnh trưởng Khánh Hòa đều muốn nhận làm của riêng mình. Nhưng Tướng Phú đã cho tôi “mượn” dùng làm nơi tạm trú mỗi lần ghé Nha Trang.

8 giờ 40 sáng, chiếc C-47 từ bãi đậu VIP phía dân sự phi trường Nha Trang tiến ra phi đạo. Đây là chiếc máy bay chỉ huy của Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng Hoài. Mỗi năm cứ mùa mưa đến, ông cho biệt phái chiếc Dakota 2 động cơ này lên cho Tư lệnh Quân đoàn II sử dụng. Bởi vì chiến trương Quân khu II gồm 2 mặt trận cao nguyên và duyên hải; thời tiết luôn xấu và sương mù. Những khi khẩn cấp nếu sử dụng trực thăng hoặc phi cơ nhỏ trên những chặng đường dài Pleiku, Phan Thiết, Bình Định phải bay rất lâu và nguy hiểm.

Lúc phi cơ sắp sửa cất cánh, Tướng Phú nói với tôi:– Hôm nay mình lên Ban Mê Thuột. Quận Đức Lập, Quảng Đức hiện đang bị pháo rất nặng, có thể bị mất …
Và ông hỏi Hóa, Sĩ quan Tùy viên, về cái lệnh mời Chuẩn tướng Lê Trung Tường, Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, hiện là Tư lệnh mặt trận nam Pleiku, và Đại tá Nghìn, Tỉnh trưởng Quảng Đức và Ban Mê Thuột họp sáng nay.
Nhìn vẻ mặt đăm chiêu, nghiêm trọng của Tướng Phú, tôi biết rằng Ban Mê Thuột sẽ vô cùng nguy ngập, nếu Đức Lập và Quảng Đức mất.

Tháng trước trong một buổi họp với Tư lệnh mặt trận nam Pleiku, sau khi xếp đặt ưu tiên cho từng mặt trận, Tướng Phú đã ra lệnh cho Đại tá Vũ Thế Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 Bộ binh về Ban Mê Thuột chỉ huy, và tăng cường thêm cho Ban Mê Thuột một đơn vị pháo binh 155 ly.
9 giờ 45 phút Tướng Phú tới phi trường Phụng Dực.

Sau những cái bắt tay vội vã, ông cùng với Chuẩn tướng Lê Trung Tường và Đại tá Nguyễn Công Luật, Tỉnh trưởng Ban Mê Thuột về Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh.

Khi đoàn xe đi ngang qua dinh Tỉnh trưởng, thấy một số sĩ quan mặc đồ trắng đánh tennis, Tướng Phú tỏ vẻ khó chịu, và ngay lập tức ra lệnh cấm trại 100%. Tới Bộ Tư lệnh Sư đoàn, ông hối hả bước vào Trung tâm Hành quân.
Tình hình Đức Lập vô cùng nguy ngập. Các đồn phụ đã bị “bứt”. Chi khu bị pháo từ 6 giờ sáng, và quân chính qui Cộng sản Bắc Việt đánh “trận địa chiến”, và đánh ban ngày. Tiểu đoàn Địa phương quân đóng tại Núi Lửa cách Đức Lập 9 cây số bị địch tràn ngập sau một trận đánh đẫm máu. Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng và một số cấp chỉ huy khác bị Việt cộng sát hại.

Tương Phú bốc máy liên hợp và liên lạc thẳng với Trung tá Nguyễn Cao Vực, Quận trưởng quận Đức Lập. Ông được báo cáo Trung tá Quận trưởng đã bị thương, hiện ở ngoài chỉ huy và điều khiển nhưng khẩu đại bác 105 ly bắn trực xạ vào Cộng quân.
Đúng 10 giờ 30 phút sáng, quận Đức Lập biến thành biển lửa. Từ 12 giờ trưa đến 5 giờ chiều ngày 9 tháng 3, 1975, Tướng Phú họp với Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, các Tiểu khu trưởng Ban Mê Thuột và Quảng Đức để duyệt xét tình hình các mặt trận.

Sau khi chấp nhận những đề nghị của các giới chức liên hệ và cho những chỉ thị cần thiết, ông ra lệnh cho Đại tá Nghìn, Tỉnh trưởng Quảng Đức bay về trước. Tại Ban Mê Thuột, để cho có sự thống nhất chỉ huy, Tương Phú bổ nhiệm Đại tá Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 làm Tư lệnh chiến trường Ban Mê Thuột.Các Tư lệnh mặt trận phải ra lệnh đôn đốc các đơn vị chuẩn bị và sẵn sàng chiến đấu trong 2, 3 tháng liên tiếp; tổ chức những cuộc hành quân xa ngoài thị xã và vị trí phòng thủ.

Kho xăng, kho đạn phải được phân tán, đề phòng đặc công Cộng sản Bắc Việt đánh phá. Lệnh thiết quân luật mỗi nơi được ủy nhiệm cho các Tư lệnh mặt trận toàn quyền định đoạt.

Hai quyết định quan trọng khác của Tướng Phú:1. Tư lệnh mặt trận Ban Mê Thuột tùy theo tình hình, nếu cần cho phá hủy cầu 14 trên đường Quảng Dưc-Ban Mê Thuọt để làm chậm sức tiến của chiến xa địch.2. Tư lệnh mặt trân Kontum tăng phái một Liên đoàn Biệt động quân cho mặt trận Ban Mê Thuột. Và Liên đoàn Biệt động quân này phải được đổ xuống Buôn Hô ngay chiều nay.

Sự có mặt của Tướng Phú tại Ban Mê Thuột ngày hôm nay, 9 tháng 3, 1975 với những quyết định có tính cách quan trọng và cấp bách ông vừa ban hành là cái “bén nhậy” của một tướng mặt trận, một vị Tư lệnh có kinh nghiệm chiến trường.

Ông làm việc liên miên ngay từ khi tới Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh. Khi quyết định tăng phái cho Ban Mê Thuột một Liên đoàn Biệt đông quân, vừa cầm dĩa cơm trên tay, vừa gọi máy ra lệnh cho Tư lệnh mặt trận Kontum cho các Tiểu đoàn Chiến đấu của Liên đoàn Biệt động quân được tăng phái, chuẩn bị di chuyển trong 2 giờ sắp tới.
Sau đó, ông cũng đích thân liên lạc với Tướng Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân ở Pleiku, để vận dụng tất cả trực thăng cho cuộc đổ quân được hoàn tất thật nhanh. Vì thế, đợt đổ quân đầu tiên của Liên đoàn 2 Biệt động quân xuống Buôn Hô đã được thực hiện ngay chiều ngày 9 tháng 3, 1975.

6 giờ chiều ngày 9 tháng 3, 1975 rời Ban Mê Thuột, Tương Phú ra lệnh bay thẳng lên Pleiku, thay vì trở lại Nha Trang nghỉ dưỡng sức. Và ngay buổi tối, ông vào làm việc, ở luông trong chiếc “bunker”, chiếc hầm nổi chống pháo kích của Tư lệnh Quân đoàn còn đang làm dở dang, sát với Trung tâm Hành quân. Lệnh cấm trại 100% được ban hành.

Từ lúc trở lại Pleiku, Tướng Phú có vẻ bồn chồn lo nghĩ. Ông hút thuốc lá liên miên. 9 giờ tối, khi được báo cáo Liên đoàn 21 Biệt động quân tăng cường cho mặt trận Ban Mê Thuột đã được trực thăng bốc từ bắc Kontum thả xuống Buôn Hô, Tướng Phú thở phào nhẹ nhõm, và nói một mình:– May ra thì … còn kịp!Rồi quay sang phía tôi:– Này, “ông nhà báo”, mình làm một tẩy mạt chược, khánh thành chiếc “bunker” mới!Tiếp đó, ông ra lệnh cho Thiếu tá Hóa, Sĩ quan Tùy viên:– Hóa! Chú mày điện thoại mời Đại tá Tham mưu trưởng và gọi Vinh. Bảo tụi nhỏ kiếm cái bàn vuông, bàn “dã chiến” cũng được.Hóa có vẻ ngần ngại:– Hôm nay Thiếu tướng bay từ sáng sớm, và giờ khuya rồi, tôi sợ Thiếu tướng mệt.– Ồ! ăn thua gì, hôm nay tôi muốn thức khuya, chú mày đừng làm ta xui xẻo!
Hóa không nói thêm nữa, lẳng lặng gọi điện thoại mời Đại tá Lý và Thiếu tá Vinh, Chánh Văn phòng Tư lệnh Quân đoàn. Hóa là Sĩ quan Tùy viên của Tướng Phú từ hồi còn ở Sư đoàn 1; người miền Trung, ít nói, tính lầm lì và rất chịu khó làm việc.

Tướng Phú là người sống bình dị, khắc khổ, không uống rượu, ăn chơi. Cái thú duy nhất của ông là hút thuốc lá và thỉnh thoảnh đưỢc xoa vài tẩy mạt chược, “ăn thua” tượng trưng. Đây là môn “thể thao” vừa giải trí, vừa đấu trí! Canh mạt chược đêm 9 tháng 3, 1975 kéo dài khoảng hai giờ đồng hồ.
Và đó cũng là lần cuối cùng Tướng Phú được hưởng cái thú tiêu khiển này. Ông bị thua, thua cả … 3 người!

Gần 1 giờ sáng, Tướng Phú gọi ra lệnh cho Đại tá Phạm Duy Tất, Tư lệnh mặt trận bắc Kontum:– Anh nhớ theo dõi “thằng con” anh mới rời Kontum anh chiều nay. Bắt nó phải “bung” ra hoạt động ngay. Ngày mai tôi sẽ ra lệnh Đại tá Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 mang bộ chỉ huy hành quân lên đó …– …– Tôi nghe nói “thằng cha Dậu” là con gà chết. Nếu anh thấy hắn ta chỉ huy không được thì nên thay thế ngay. Đừng che chở, kẻo hỏng việc hết!– Tôi xin tuân lệnh Thiếu tướng!

Đại tá Phạm Duy Tất, Tư lệnh mặt trận bắc Kontum và cũng là chỉ huy trưởng Lực lương Biệt động quân, Quân khu II. Trung tá Dậu, Liên đoàn trưởng Liên đoàn 21 Biệt động quân vừa được thả xuống Buôn Hô, đông bắc Ban Mê Thuột, và mới nắm quyền chỉ huy Liên đoàn Biệt động quân hơn 1 tháng nay!30 ngày trước khi Cộng quân tấn công Ban Mê Thuột, khi chưa bị rối loạn, chưa ban hành quyết định rút Cao nguyên, bỏ Huế; Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã đi khắp 4 Vùng Chiến thuật để ăn tất niên ngoài tiền tuyến với binh sĩ. Tại mặt trận bắc Kontum, vùng biên giới Lào-Việt, Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Chiến trường Cao nguyên, hướng dẫn Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa tới thăm một đơn vị Biệt động quân trên tuyến đầu.“Người Lính Kèn” của Trường Võ Bị Đà Lạt
10 giờ 30 phút sáng ngày 9 tháng 3, 1975, quận Đức Lập tỉnh Quảng Đức biến thành biển lửa. Trước đó, hai viên đại bác 82 ly không giật của Bắc quân bắn trúng đài chỉ huy chi khu.

Đài chỉ huy sập. Người Sĩ quan An ninh tử trận tại chỗ. Trung tá Nguyễn Cao Vực, Quận trưởng bị thương, nhúng đầu vào lu nước, thoát ra ngoài. Ông Quận trưởng đích thân chỉ huy và điều khiển hai khẩu đại bác 105 ly, bắn trực xạ, ngăn chận những đợt xung phong biển người của quân Cộng sản Bắc Việt.

Bốn ngày trước, 5 tháng 3, 1975 một cuộc phục kích tại phía đông Buôn Dak Gang cách bắc Đức Lập 10 cây số. Lực lượng chi khu đã bắt được một tù binh thuộc Sư đoàn F10 Cộng sản Bắc Việt, và tài liệu tiết lộ Bắc quân sẽ đại tấn công Quảng Đức và Ban Mê Thuột, mở đầu chiến dịch Tây Nguyên 1975. Nhưng nguồn tin này, cũng như nguồn tin tình báo tương tự của tiểu khu Ban Mê Thuột, khi khai thác một sĩ quan tù binh Cộng sản Bắc Việt trong toán tiền thám của Sư đoàn 320 Điện Biên Phủ tại Bắc Ban Mê Thuột (tù binh Bắc Việt bị bắt ngày 7 tháng 3, 1975), đã không được Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh và Quân đoàn II “xếp hạng” là những nguồn tin quan trọng.
Hôm nay Sư đoàn F10 Cộng sản Bắc Việt nhất định san bằng quận Đức Lập để tiến quân về Ban Mê Thuột. Các công sự phòng thủ trên mặt đất sập hết, nhưng Quận trưởng Nguyễn Cao Vực và các chiến hữu của mình vẫn cầm cự chiến đấu dai dẳng ở các giao thông hào.

Nguyễn Cao Vực, người “pháo thủ” của các chiến trưỜng Chiến khu D 1960, Bu Prang 1968, Kontum 1972, cũng lính là “anh lính kèn người Thượng” với cái tên “Cai Son” của sinh viên sĩ quan khóa 13 trường Võ Bị Đà Lạt. Hạ sĩ Son, anh lính kèn là người đã mang đến cho các sinh viên sĩ quan những giây phút vui buồn đáng nhớ mỗi ngày. Từ điệu kèn báo thức, tập hợp đi ăn, cũng như mặc đồ trận, đeo ba lô buổi tối trình diện dã chiến khi bị phạt … Nguyễn Cao Vực là người có sắc diện như một cái cột nhà cháy, nên được bạn bè đặt cho cái tên là “Cai Son”. Và anh rất thích cái tên đó.

Tôi có khá nhiều kỷ niệm với Vực, vì cùng một trung đội trong hai năm học tại trường. Đầu năm 1960, khi tôi hướng dẫn Dickey Chapel – người nữ Phóng viên kỳ tài của thế giới, đã từng nhảy dù theo một lực lượng Mỹ xuống Okinawa trong trận Thế chiến II – đi hành quân tại chiến khu D, với một đơn vị nổi danh của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa thời đó là Trung đoàn 8 thuộc Sư đoàn 5 Bộ binh, thì Vực là Pháo đội trưởng Pháo đội 105 ly, tăng cường cho đơn vị này.

Thiếu tá Nguyễn Văn Tư, Trung đoàn trưởng đã giới thiệu với chúng tôi hai quân nhân thiện chiến và “chì” nhất của Trung đoàn. Đó là Trung úy Bác sĩ Lê Đình Kỳ và Pháo đội trưởng Nguyễn Cao Vực. Bác sĩ Kỳ là ngươi không thích hành nghề chuyên môn mà chỉ thích truyện trận mạc. Còn Vực được mệnh danh là một Pháo đội trưởng lì lợm, thiện xạ, bắn đâu trúng đó.

Một tuần lễ đi hành quân với Trung đoàn 8 Bộ binh trong Chiên khu D, Dickey Chapel và tôi thương ăn và ngủ chung với Bộ Chỉ huy của Trung đoàn, gồm Thiếu tá Tư, Bác sĩ Kỳ, Trung úy Vực, và Hiền. Hiền là Sĩ quan Hành quân của Trung đoàn và cũng tốt nghiệp khóa 13 Võ bị Đà Lạt.
Trong sáu người chúng tôi, lần lượt Đại úy Hiền, Đại tá Tư đều tử trận. Họ đã hy sinh tại vùng đất và đơn vị mà họ đã chiến đấu, phục vụ nhiều năm. Dickey Chapel, người mà tôi kính trọng như một người chị trong nghề phóng viên chiến tranh, cũng vĩnh viễn ở lại Việt Nam trên “dãy phố buồn thiu” ngoài chiến trương miền Trung.

Hôm nay đến lượt Nguyễn Cao Vực. Anh là một Quận trưởng bất đắc dĩ. Anh đã bị thả xuống Đức Lập, và trở thành Quận trưởng dù muốn hay không, giữa năm Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
Và có thể đây là trận chót trong đời binh nghiệp người pháo thủ tài ba của Sư đoàn 5 Bộ binh, của chiến trường Cao nguyên, đã lại có dịp thi thố cái khả năng chuyên môn của mình. Hai khẩu đại bác 105 ly bắn trực xạ vào các đơn vị tiền phong Sư đoàn F10 Cộng sản Bắc Việt chắc chắn đã có một sự đánh đổi cân xứng trước khi và các chiến hữu của mình vùi ngập trong biển lửa.

Tôi tự hỏi, nếu Vực không thoát được trong trận này, còn lại Bác sĩ Lê Đình Kỳ và tôi, ai sẽ là người sống sót sau cùng, sau 20 năm chiến tranh dài của một đời người?
Các “Dũng Sĩ” Trung đoàn 53 Bộ binh tại mặt trận phi trương Phụng DựcNgày 10 tháng 3, 1975Những trận mưa pháo vào Ban Mê Thuột từ 2 giờ đến 4 giờ sáng rạng ngày 10 tháng 3, 1975 đã gây kinh hoàng cho mấy chục ngàn quân cũng như dân, hiện đang có mặt tại thị xã này.
Sau đó là những chiến xa đủ loại, băng rừng, nghiền nát các ngả đường, để các lực lượng của những Sư đoàn 320, 316 Cộng sản Bắc Việt ào ạt tiến vào.

Nhưng, những người kinh hoàng và đau đớn nhất là hai cấp chỉ huy có trách nhiệm phòng thủ Ban Mê Thuột: Đại tá Vũ Thế Quang và Đại tá Vũ Công Luật!
Đại tá Luật, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Ban Mê Thuột là một Sĩ quan Thiết giáp kỳ cựu của Quân lực Viêtn Nam Công Hòa. Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn I Thiết kỵ trong cuộc hành quân sang Lào 1971, người mà báo chí Việt Nam và ngoại quốc gọi là “Patton Việt Nam”. Patton là danh tướng Thiết giáp của Mỹ trong Thế Chiến II. Đại tá Luật đã từng chỉ huy một Lực lượng Thiết giáp quan trọng và tối tân nhất của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, với những Thiết đoàn M48, M41 chiến xa trong cuộc tiến quân này.

Đêm nay Bắc quân đánh trận địa chiến vơi chiến xa nặng, với chiến thuật biển người, thì trong tay ông vỏn vẹn có được hai Chi đội Thiết vận xa M113 và những xe bọc sắt tuần tiễu của Địa phương quân. Một thứ “đồ chơi con nít” nếu so sánh với loại Thiết giáp tối tân T54 của Nga Sô mà Cộng sản Bắc Việt hiện đang sử dụng!
Đại tá Vũ Thế Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 Bộ binh và Tư lệnh mặt trận Ban Mê Thuột khi nghe những tiếng đạn bay xé không gian, nổ tại phi trường L19, trước tiểu khu, bộ Tư lệnh Sư đoàn, đã thấy ngay cái giá mà lực lương phòng thủ phải trả. Bởi vì những khẩu đại bác 122 ly, 130 ly của Bắc quân đã kéo sát tới thị xã!
Những tiếng đại pháo của địch nổ tại Ban Mê Thuột cũng đã làm cho các tướng lãnh nắm vận mạng Đất Nước bừng tỉnh. Họ tạm quên đi những hận thù, những tranh giành quyền hạn, phe phái. Tất cả đều hướng về mặt trận này!

Lệnh của Đại tướng Cao Văn Viên từ Bộ Tổng Tham Mưu Quân lực Viêt Nam Cộng Hòa được truyền đi lúc 7 giờ sáng. Của Tướng Trần Thiện Khiêm, Thủ tướng Chính phủ gọi từ Đà Lạt lúc 8 giờ 40 phút. Của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gọi từ Dinh Độc Lập lúc 10 giờ 10 phút, và 19 giờ tối.

Trận đánh quyết định giữa hai miền Nam-Bắc đã xảy ra. Nhưng lực lượng giữa hai bên quá ư chênh lệch, như trứng chọi với đá nếu so sánh cả về quân số, vũ khí, chiến cụ. Địch đã ở thế thượng phong ngay từ lúc đầu!

Tuy nhiên, trong ngày đầu tinh thần chiến đấu của các dũng sĩ Trung đoàn 53 Bộ binh, sự gan dạ của những phi công anh hùng A37, của những chiến sĩ Địa phương quân tiểu khu Darlac, đã làm cho Bắc quân kinh ngạc, nể vì. Những tin tức phấn khởi bay đi khắp nước ngay khi “những cánh đại bàng” xuất hiện trên vùng trời Ban Mê Thuột.
Phi tuần phản lực A37 đầu tiên đã bắn cháy hai chiến xa, và hai cỗ đại bác phòng không của Cộng sản Bắc Việt ngay trong thị xã lúc 11 giờ 30 phút. Hai chiến xa khác cũng do không quân đánh bom trúng tại 2 cây số tây bắc Ban Mê Thuột. Lực lương Địa phương quân Darlac đã tạo một bất ngờ lúc 11 giờ trưa khi bắn cháy một T54 trước bộ Chỉ huy Tiểu khu ngay trên đường Thống Nhất!

Trận “thử sức” của các trung đoàn tiền phong quân chính quy thuộc Sư đoàn 320 Điện Biên Phủ và những “dũng sĩ” Trung đoàn 53 Bộ binh trên phòng tuyến quanh phi trường Phụng Dực xảy ra lúc 14 giờ.
Mở đầu là những trận mưa pháo, cầy nát sân bay. Từng đoàn chiến xa của Bắc quân gầm thét, di chuyển theo đội hình từ khắp ngả tiến vào.
Nhưng tinh thần các chiến sĩ ta không hề nao núng. Đây cũng không phải là “trận thư hùng” đầu tiên của các đơn vị tinh nhuệ của ta và địch.

Bởi vì trước khi rút về phòng thủ phi trường Phung Dực, Trung đoàn 53 tăng phái cho mặt trận Quảng Đức đã đụng độ với các trung đoàn chủ lực của Sư đoàn F10 rất nhiều lần trong những tháng trước, và mấy ngày mới đây với Sư đoàn 320 của Cộng sản Bắc Việt tại Đông Bắc Ban Mê Thuột.
Sau gần 2 giờ quần thảo, Trung đoàn 53 Bộ binh đã đẩy lui 3 đợt xung phong biển người của địch. 15 giờ 30, Bắc quân chém vè, để lại trên 200 xác và 50 vũ khí đủ loại, 4 chiến xa Cộng sản Bắc Việt bị bắn cháy.
Báo cáo chiến thắng về Trung tâm Hành quân Quân đoàn II bằng hệ thống điện thoại viễn liên từ phi trường Phụng Dực, “người lính số 1” của Trung đoàn 53 Bộ binh, một trong những anh hùng của mặt trận Ban Mê Thuột, Trung tá Võ Ân, Trung đoàn trưởng nói với Tướng Phú:– Trình “Mặt Trời”, những “đứa con” của tôi sứt mẻ chút ít, nhưng tinh thần rất cao.Trận đánh vừa kết thúc. Hơn 200 xác Việt cộng còn để nguyên ngoài chiến trường. Vũ khí tịch thu tôi đã cho kéo về phòng danh dự của phi cảng để “triển lảm”! Trong đó có cả 3 đại bác phòng không và 4 hỏa tiễn SA7 còn mới nguyên.

Tướng Phú vui mưng lộ trên nét mặt. Ông khen ngợi và ra lệnh cho Ân bằng một giọng hết sức thân mật:– “Chú mày” giỏi lắm! Chuyển lời khen của tôi đến anh em. Ráng lên! Sau trận này mỗi người lên một cấp. Nhưng không được khinh thường địch quân! Phải chuẩn bị và đề phòng tối đa ngay! Rõ chưa?– Trình “Mặt Trời”, tôi nhận rõ!
Tướng Phú cúp máy. Trung tá Võ Ân trở ra chiến hào phòng thủ cùng với các chiến hữu của mình.

Tuy nhiên chiến thắng trên đây chỉ là một may mắn đặc biệt, một chiến thắng sau cùng của Trung đoàn 5e Bộ binh trong trận đánh quyết định giữa hai miên Nam-Bắc năm 1975.
Ngày 10 tháng 3, 1975 là một ngày cực kỳ sôi động trên chiến trương Cao nguyên. Trong lịch sử 30 năm chiến tranh Việt Nam kể từ hồi còn quân đội Pháp, chưa bao giờ có những trận đánh đồng loạt, dồn dập như vậy.
Ngoài mặt trận chính Ban Mê Thuột, Cộng quân tấn công khắp nơi. Các trận bắc Kontum, nam Pleiku, bắc Bình Định, Quảng Đức và trên 2 quốc lộ 19, 21 đều bị áp lực nặng nề.

Tiểu khu Ban Mê Thuột bị mất liên lạc lúc 12 giờ trưa. Những đoàn xe chở quân của Bắc Việt vẫn tiếp tục tiến về Ban Mê Thuột. Lệnh phá cầu 14 trên quốc lộ nối liền Quảng Dức-Ban Mê Thuột được ban hành. Những trận pháo kích, đụng độ nặng nề quanh Căn cứ 93 phía nam Pleiku kéo dài suốt ngày.
15 giờ 15 phú, phi trường Cù Hanh, Pleiku bị pháo. Một trực thăng và một dãy nhà bị cháy, một Dakota bị hư hại.
18 giờ 20 phút, Cộng quân pháo trúng Bộ Tư lệnh Quân đoàn, khu câu lạc bộ sĩ quan và Bộ Chỉ huy Không trợ II. Thị xã Pleiku thiết quân luật 9 giờ tối.
Tại mặt trận Bình Định, Trung đoàn 42 và 47 giao tranh suốt ngày với các đơn vị Cộng sản Bắc Việt và hạ 200 tên tại thung lũng Vĩnh Thạnh. Sư đoàn 22 Bộ binh hiện đã trực diện với Sư đoàn 3 Sao Vàng, các trung đoàn biệt lập của Bắc Việt tại Quân khu 5.

Một tin chấn động khác, 17 chiến xa Cộng sản Bắc Việt xuất hiện gần Phù Cát, Bình Định lúc 5 giờ 30 chiều.
Tổng kết tại mặt trận Ban Mê Thuột trong ngày đầu cùng với chiến thắng của Trung đoàn 53 Bộ binh, thêm 100 Cộng quân khác bị hạ trước tiểu khu, trước khi tiểu khu Darlac bị mất liên lạc, và trước dinh Tỉnh trưởng, gần sát với Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh. 12 chiến xa Cộng sản Bắc Việt bị bắn cháy, trong số đó có 11 cái do Không quân đánh bom trúng.

Những lệnh cuối cùng trong ngày Tướng Phú chỉ thị cho Tướng Lê Trung Tường, Tư lệnh mặt trận nam Pleiku và Tỉnh trưởng không được lùi khỏi Căn cứ 93 trên tuyến phòng thủ Bộ Tư lệnh Quân đoàn và thị xã này. Liên Đoàn 21 Biệt động quân đã từ Buôn Hô di chuyển về gần tới Ban Mê Thuột bằng mọi giá phải tái chiếm bộ chỉ huy tiểu khu và kho đạn Ban Mê Thuột.
19 giờ tối, Tổng Thống Thiệu từ Saigon gọi lên chỉ thị cho Tư lệnh Quân đoàn II giải quyết chiến trường Ban Mê Thuột mau lẹ (?)

Giây Phút Cuối Cùng của Tư Lệnh Mặt Trận Ban Mê ThuộtNgày 11 tháng 3, 1975.Trận đánh đẫm máu thư 2 giữa Trung đoàn 53 Bộ binh và một lực lương quân chính qui Cộng sản Bắc Việt đã được tăng cường đông hơn gấp 10 lần, xảy ra lúc 5 giờ sáng. Đó cũng là lần xuất trận đầu tiên của Sư đoàn 316, sư đoàn tổng trừ bị của Bắc Việt tại
mặt trận phi trường Phụng Dực trên chiến trường Cao nguyên.

Sư đoàn 316 tổng trừ bị Cộng sản Bắc Việt vừa di chuyển từ miền Bắc vào, và mới tới trận địa hồi đêm. Những báo cáo tiên khởi trong 2 giờ đầu cho biết Trung đoàn 53 Bộ binh bị thiệt hại quá nặng.

7 giờ 45 phút sáng, đích thân Tư lệng mặt trận Ban Mê Thuọt, Đại tá Vũ Thế Quang gọi lên Trung tâm Hành quân Quân đoàn II cho biết tình hình vô cùng nguy ngập. 10 chiến xa Cộng sản Bắc Việt đang bắn trực xạ vào Bộ Tư lệnh Sư đoàn.
Người sử dụng máy siêu tần số lúc đó là Trung tá Không quân Nguyễn Văn Giang, Giám đốc Không trợ II. Bằng những ngụy thoại, ông cho biết đoàn phản lực cơ cất cánh từ Nha Trang đang trên đường, và sắp tới vùng trời Ban Mê Thuột.
7 giờ 55 phút, hai chiếc phản lực cơ A37 lao xuống mục tiêu, những chiến xa Cộng sản Bắc Việt, và đánh vô cùng chính xác. Nhưng chỉ mấy phút sau, bỗng nghe Đại tá Quang hét lên trong máy truyền tin:– Ơ!… “nó” đánh trúng tôi!!!
8 giờ. Đó là giờ phút của “định mệnh”. Hai trái bom đã thả trúng hầm Chỉ huy và Truyền tin của Tư lệnh mặt trận Ban Mê Thuột. Và Trung tâm Hành quân Quân đoàn II mất liên lạc với Ban Mê Thuột từ lúc đó.Nghe câu nói sau cùng của Quang, tự nhiên tôi thấy đau lòng và đưa mắt nhìn Giang. Quang, Giang và tôi đều là bạn.

Quang với biệt danh “Quang dù”, là người lính của chiến trường và thành phố trong 2 thập niên 1955-1975. Trước năm 1960 khi chiến tranh còn ở cấp tiểu đoàn, một số sĩ quan trong các binh chủng Không quân, Nhảy Dù rất nổi tiếng trong cả hai lãnh vực: ăn chơi và đánh giặc. Tên tuổi họ trở thành những nhân vật trong tiểu thuyết, các phóng sự với những biệt danh riêng. Chẳng hạn như: Cương “khểnh”, Hợi “voi”, Quang “dù”, Hùng “sùi”, Giang “nám” …
Thơi gian ở Nhảy Dù, Quang là một Tiểu đoàn trưởng trung bình, nhưng là người có một “nghệ thuật sống” siêu đẳng. Anh luôn luôn tự chế và thích nghi với mọi hoàn cảnh. Cuối năm 1963, Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù đang được tái huấn luyện tại Trung tâm Vạn Kiếp, mới được tạm thơi giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng, anh đã liều lĩnh mang tiểu đoàn về Saigon tham gia đảo chánh. Nhưng công trạng của anh chỉ được biết đến khi Tướng Nguyễn Cao Kỳ được bổ nhiệm làm Tư lệnh Không quân.

Rồi sau đó, khi trở thành Thủ tướng, ông Kỳ đã đề cử Quang chỉ huy Liên đoàn An ninh Danh dự. Đường hoạn lộ chim bay từ đó!
Nhưng phải nói anh là người đàng hoàng, trung trực. Khi ông Kỳ bị ông Thiệu hất cẳng, cho “ngồi chơi sơi nước”, một bất ngờ, anh được ông Thiệu cho đi làm Thị trưởng Cam Ranh. Anh vào Tân Sơn Nhất hỏi ý kiến ông Kỳ. Không may cho anh, trong một canh mạt chược dở dang, ông Kỳ rất thờ ơ lạnh lùng. Vì vậy, anh thất vọng bỏ đi. Từ đó, anh trở lại cương vị của một người quân nhân “nhà nghề”. Tuy nhiên, bạn bè vẫn nghi ngờ và chế diễu anh là một “petit … Lên Nguyên Khang” (!) Mỗi khi có chiến thắng Việt Cộng, tay phải cầm khẩu AK47 tặng Trung tướng Thiệu, tay trái trao khẩu CKC cho Thiếu tướng Kỳ. Cũng như Trung tướng Khang, luôn luôn đu giây giữa “cánh phải và cánh trái” dinh Độc Lập với câu nói đầu môi: “ông Kỳ là bạn, ông Thiệu là thày, tôi chỉ biết phục vụ cho quyền lợi của Tổ quốc và Quân đội”!!!

Sau khi rời chức vụ Thị trưởng Cam Ranh vơi thâm niên cấp bậc, Quang được bổ nhiệm làm Tư lệnh Phó Sư đoàn 23 Bộ binh.
Chiều ngày 9 tháng 3, 1975 , Tướng Phú rất khó khăn và cân nhắc mãi mới chọn lựa anh làm Tư lệnh chiến trường Ban Mê Thuột, vì Đại tá Luật, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Darlac chức vụ nhỏ hơn, nhưng trận mạc và cấp bậc thâm niên hơn.
Tôi nhớ khi rời phi trường Phụng Dực, Tương Phú bắt tay Quang và nói:– Cố gắng và ráng cẩn thận nghe Quang! Đừng để lỡ dịp lên tướng kỳ này. Mình … Nhảy Dù mà !Quang đứng nghiêm chào Tướng Phú:– Thiếu Tướng yên tâm, tôi sẽ làm tất cả những gì có thể làm được. Và tôi sẽ chết tại đây trước khi Ban Mê Thuột mất!

Sau khi Trung tâm Hành quân, hầm Chỉ huy và Truyền tin của Tư lệnh Chiến trường bị sập, mọi người đều lo lắng cho số phận Ban Mê Thuọt.

Đại tá Tham mưu trưởng Quân đoàn được lệnh thành lập bộ Chỉ huy Hành quân trên không để chỉ huy mặt trận Ban Mê Thuột. Cả hai chiếc C47 và U17 của Tư lệnh Quân đoàn đều được sử dụng. Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Hành quân nhẹ cũng được thành lập gấp rút ở Buôn Hô.
11 giờ 50 phút, sau gần 4 giờ chờ đợi, Trung tâm Hành quân Quân đoàn II ghi nhận mất liên lạc hoàn toàn với Tư lệnh chiến trường Ban Mê Thuột và Đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng tiểu khu Darlac.
15 giơ 30, Đại tướng Cao Văn Viên gọi cho Tướng Phú gay gắt ra lệnh “bốc” Chuẩn tướng Lê Trung Tường, Tư lệnh Sư đoàn 23 từ mặt trận nam Pleiku thả xuống Ban Mê Thuột chỉ huy.

17 giờ và 23 giờ đêm, những lệnh của Tổng Thống Thiệu và Thủ tướng Chính phủ Trần Thiện Khiêm:– Linh động trong mọi trường hợp. Cẩn thận không nên dồn hết quân trong mặt trận này.– Tư lệnh Quân đoàn toàn quyền quyết định, có thể bỏ Ban Mê Thuột. Tránh sa lầy, vì có thể còn hai, ba mặt trận lớn nữa tại Quân khu II.– Tường trình chính xác các sư đoàn Cộng sản Bắc Việt hiện tham chiến trên trận địa Ban Mê Thuột.– Tỉnh trưởng Ban Mê Thuột coi như đã mất tích. Chấp thuận thả một Tỉnh trưởng khác xuống chỉ huy nơi có dân và quân tập trung nhiều. Lập tòa Hành chánh và bộ Chỉ huy tiểu khu Ban Mê Thuột lưu động.

Giây phút cuối cùng của Tư lệnh chiến trường Ban Mê Thuột sau này được ghi nhận với những dữ kiện đặc biệt. Buổi sáng khi 2 trái bom 500 cân Anh của Không quân đánh sập một đầu hầm Trung tâm Hành quân của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, một số sĩ quan trong bộ tham mưu đã thoát lên được. Trên một thiết vận xa M113, Đại tá Vũ Thế Quang sử dụng máy truyền tin liên lạc với chiếc máy bay chỉ huy, cho lệnh các phản lực cơ trút bom xuống bộ Tư lệnh Sư đoàn hiện đang bị địch quân tràn ngập. Và cho biết sẽ rút về phía Trung đoàn 53 Bộ binh tại phi trường Phụng Dực để tiếp tục chỉ huy.

Đại tá Nguyễn Công Luật cùng với Phó Tỉnh trương Hành chánh Nguyễn Ngọc Vỵ đi theo một hướng khác. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, chiếc thiết vận xa chỉ huy bị bắn cháy, Đại tá Quanh thoát chết trong gang tấc. Cộng quân lúc này đầy khắp các ngả đường trong thành phố cùng với những đoàn xe tăng của chúng.
Cũng thời gian này, trên Quốc lộ 14, khoảng đường tư Đức Lập về Ban Mê Thuột, bộ Chỉ huy Hành quân nhẹ của Trung đoàn 53 Bộ binh cùng với một tiểu đoàn, được lệnh rút từ vùng hành quân phía đông bắc quận Đức Lập về tiếp cứu Ban Mê Thuột, cũng bị Việt cộng phục kích chận đánh. Trung tá Trung đoàn Phó Trung đoàn 53 và hầu hết các sĩ quan đều bị tử trận hoặc bị địch bắt. Cánh quân này coi như bị tan rã trước khi tới được trận địa Ban Mê Thuột.
Đến xế trưa ngày 11 tháng 3, bên cạnh Đại tá Quang chỉ còn có người Thiếu úy, Sĩ quan Tùy viên và một người lính. Không thể đi tới được phi trường Phụng Dực và cũng không còn phương tiện truyền tin để liên lạc, ba người đã ẩn tránh trong một vườn cà phê mấy tiếng đồng hồ, đợi đêm tối nhắm hướng nam đi về phía Quảng Đức.
2 giờ sáng ngày 12 tháng 3, đi được khoảng 6 cây số đưỜng rừng ngay khi vưa tới sát một làng Thương, thì bị Việt cộng nổ súng, xông ra vây bắt. Thấy Đại tá Quang vẫn còn mang cấp bậc trên cổ áo và xưng danh là Tư lệnh Phó Sư đoàn 23 Bộ binh, chúng đã trói lại, lột giầy và liệng xuống hố. Chừng một giờ sau, chúng được lệnh dẫn Đại tá Quang đi suốt đêm. Tới chiều hôm sau, ngày 13 tháng 3, được cởi trói, cho đi giầy vào và chở đi bằng xe Molotova sang Cam Bốt để khai thác. Vùng rừng núi này, chắc chắn là nơi đặt bản doanh bộ Tư lệnh chiến trường Tây nguyên 1975 của 2 Tướng Cộng sản Bắc Việt Văn Tiến Dũng và Hoàng Minh Thảo.

trong suốt thời gian bị điều tra, Đại tá Quang bị Việt cộng khủng bố tinh thần, cùm giữ hai chân trong hai thân cây lớn được khoét lỗ sẵn. Đó có thể cũng là kết quả đưa đến những lời cung khai của Tư lệnh Phó Sư đoàn 23 Bộ binh, như Văn Tiến Dũng đã viết trong cuốn Đại Thắng Mùa Xuân.
Nhưng với cuộc tấn chiếm Ban Mê Thuột bằng một lực lượng chính qui Cộng sản Bắc Việt đông hơn gấp 10 lần, có chiến xa, pháo binh yểm trợ, do chính Văn Tiến Dũng, Tổng Tư lệnh quân đội Bắc Việt trực tiếp chỉ huy, việc giữ được Ban Mê Thuột 48 giờ đã là một sự kiện hết sức đặc biệt. Vì Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh không có hệ thống phòng thủ để chiến đấu. Lực lượng chính yếu là Trung đoàn 53 Bộ binh thì trấn đóng tại phi trường Phụng Dực, cách Ban Mê Thuột 5 cây số. Trong thị xã, ngoài các đơn vị Địa phương quân, chỉ có những thành phần quân nhân lo về tiếp liệu, phòng giữ hậu cứ của các Trung đoàn Bộ binh, hậu cứ các đơn vị Thiết giáp, Pháo binh, Truyền tin, Quân cụ, Công binh.Một Huyền Thoại trong Chiến Tranh Việt Nam4 giờ sáng ngày 10 tháng 3, 1975.Sau những trận mưa pháo suốt 2 tiếng đồng hồ, Cộng quân với chiến xa và biển người, tấn chiếm Ban Mê Thuột. Và với một lực lượng đông gấp 10 lần, địch đã làm chủ tình hình ngay từ phút đầu.

Sự chống trả mảnh liệt của những đơn vị phòng vệ thị xã cùng với sự yểm trợ hữu hiệu gan dạ của các phi công anh hùng, đã chặn bớt được sức tiến của quân thù.Nhưng ngày hôm sau, khi Cộng sản Bắc Việt tung thêm Sư đoàn tổng trừ bị 316 mới ở miền Bắc vào, thì lực lương hai bên giữa ta và địch quá ư chênh lệch, cả về quân số, chiến xa lẫn vũ khí nặng!12 giờ trưa ngày 10 tháng 3, 1975 tiểu khu Ban Mê Thuột mất!8 giờ sáng hôm sau 11 tháng 3, 1975, 10 chiến xa T54 của Cộng sản Bắc Việt bắn trực xạ vào bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh. Vị Tư lệnh chiến trường chấp nhận rủi ro, nguy hiểm, yêu cầu Không quân đánh bom thẳng vào những xe tăng địch. Những phản lực cơ A37 lao xuống. Ba chiếc T54 bốc cháy, nhưng rồi 2 trái bom khác rơi trúng sập một đầu hầm của Trung tâm Hành quân Sư đoàn 23 Bộ binh. Hệ thống truyền tin giữa Ban Mê Thuột-Pleiku bị hư hại hoàn toàn, mất liên lạc với Tư lệnh Chiến trương và Tỉnh trưởng Ban Mê Thuột từ đó.

8 giờ sáng ngày 11 tháng 3, 1975, giờ phút của định mệnh, và cũng là khởi đầu ngày thứ hai trong trận đánh quyết định giữa hai miền Nam-Bắc 1975. Chiến trường Ban Mê Thuột coi như kết thúc với sự tràn ngập của Bắc quân.Nhưng tại phi trường Phụng Dực, cách Ban Mê Thuột khoảng 8 cây số về phía đông, một trung đoàn (-) của Sư đoàn 23, với 2 Tiểu đoàn của Trung đoàn 53 Bộ binh, một Chi đoàn Thiết vận xa M113, một Pháo đội đại bác 105 ly vẫn tiếp tục chiến đấu thêm một tuần lễ nữa. Chiến đấu dũng mãnh, dai dẳng, phi thường cho đến những người lính cuối cùng và những viên đạn cuối cùng được bắn đi!Đó là một huyền thoại trong một cuộc chiến đấu chống Cộng thần thánh nhất của quân dân miền Nam Việt Nam. Đó cũng là biểu tượng tinh thần gang thép, sắt đá của người chiến sĩ Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.Trận thử sức dò dẫm của 2 trung đoàn Cộng sản Bắc Việt và các lực lượng phòng thủ mặt trận phi trường Phụng Dực đầu tiên xảy ra lúc 14 giờ trưa ngày 10 tháng 3, 1975, với kết quả địch bỏ lại chiến trường trên 200 xác chết!

Nhưng chưa đầy một ngày sau, 5 giờ sáng 11 tháng 3, 1975 khi những chiến xa T54 Bắc Việt nghiền nát những đường phố Ban Mê Thuột, tiến thẳng vào bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, cũng là lúc địch quân rửa hận cho đồng bọn chúng tại mặt trận phi trường Phụng Dực.
Sư đoàn 316 tổng trừ bị của Cộng sản Bắc Việt lần đầu tiên được sử dụng trên Chiến trường Cao nguyên và miền Nam Việt Nam. Từ xa lộ đất Hồ Chí Minh, sư đoàn này bất chấp mọi thiệt hại, di chuyển ngày đêm để tới trận địa đêm 10 tháng 3, 1975. Và ngay sáng hôm sau, dốc toàn lực lượng tấn công Trung đoàn 53 Bộ binh.45 phút khởi đầu là những cơn mưa đạn đại bác khiến chiến sĩ ta chìm ngập trong giao thông hào. Sau đó, Bắc quân với những tên lính trẻ xuất trận lần đầu, hung hăng, hò hét … xung phong. Từng lớp, từng lớp gục xuống, nhưng chúng vẫn hô, vẫn tiến.Trận thư hùng thứ hai ngày 11 tháng 3, 1975 này kéo dài 2 giờ 40 phút. Gần 200 người anh hùng của chiến trường miền núi vĩnh viễn buông súng, ở lại Cao nguyên Việt Nam!Nhưng những người còn lại vẫn tiếp tục chiến đấu.

Chiến đấu không yểm trợ, không tiếp tế, không tản thương, không tăm gội, 24 giờ trên 24 giờ ngoài chiến hào phòng thủ!
Quá nửa lực lượng bị thiệt hại từ khi ở mặt trận Quảng Đức rút về. Trung đoàn 53 Bộ binh hiện còn hơn một tiểu đoàn với khoảng 500 tay súng. Và họ đã chiến đấu đơn độc sang ngày thứ ba 12 tháng 3, ngày thứ tư 13 tháng 3, ngày thứ năm 14 tháng 3, ngày thứ sáu 15 tháng 3, ngày thứ bảy 16 tháng 3. Và hôm nay, ngày thứ tám 17 thang 3, 1975!Thật anh hùng! Thật vĩ đại! Thật phi thường! Không còn từ ngữ nào khác hơn để ca ngợi, vinh danh họ. Và đó cũng là một huyền thoại độc đáo nhất của chiến tranh Viêt Nam trong trận đánh sau cùng trên Chiến trường Cao nguyên!Bay trên đầu những người anh hùng của mặt trận phi trường Phụng Dực trưa ngày 12 tháng 3, 1975, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Chiến trường Cao nguyên đã nói chuyện với 2 người quân nhân lớn nhất và nhỏ nhất của Trung đoàn 53 Bộ binh.“Người anh hùng Võ Ân”, Trung tá Trung đoàn trưởng:– Trình Mặt Trời, lực lượng địch quá mạnh. (Mặt Trời là danh hiệu ngày hôm nay của Tướng Phú, Tư lệnh Quân đoàn II).– Chú mày chịu nổi không? Tinh thần anh em ra sao?– Bị sứt mẻ kha khá ngày hôm qua, nhưng chưa sao. Mặt Trời yên tâm!– Chú mày muốn gì đặc biệt không?– Dạ không! Nhưng sao Mặt Trời không bay trực thăng hôm nay?– Tại qua muốn ở chơi với chú mày và những anh em khác lâu lâu một chút. Mà tại sao chú mày hỏi như vậy?– Tại vì tôi muốn Mặt Trời đáp xuống coi kho vũ khí Việt cộng ở phòng danh dự phi cảng cho anh em lên tinh thần.Tướng Phú cười:– Ý kiến hay đấy! Thôi … để lần sau vậy!– …“Người anh hùng Nguyễn Văn Bảy”, Binh nhì xạ thủ súng cối 81 ly:– Em tên gì? Bao nhiêu tuổi?– Dạ … Binh nhì Nguyễn Văn Bảy, 18 tuổi!– Em thấy Việt cộng chết nhiều không?– Nhiều, nhiều lắm … Thiếu tướng!– Em muốn xin Thiếu tướng gì nào?– xin thuốc hút và … lựu đạn.– Gì nữa?– Thôi!– Thiếu tướng thăng cấp cho em lên Binh nhất! Chịu không?– …Một giọng cười khúc khích trong máy:– Ông Thầy! Ông Tướng tặng tôi cái “cánh gà” chiên bơ!– Không được … tao phản đối!– …Cái “cánh gà”, chữ V, là hình dáng của chiếc lon Binh Nhất. Ông Thầy là tiếng gọi thân mật vị Trung tá Trung đoàn trưởng mà người “Binh Nhất vừa được tân thăng” Nguyễn Văn Bảy thường hay sử dụng.

Mẫu đối thoại trên cho thấy tình chiến hữu, anh em của những người lính Trung đoàn 53 Bộ binh. Đó cũng là một cách để chứng minh, tại sao trong những ngày cuối cùng họ vẫn sống chết bên nhau? Họ đã chia nhau từng viên đạn, từng dúm gạo sấy, từng hớp nước, từng hơi thuốc …
Theo thời gian, 7 ngày đêm chiến đấu dài hơn 7 năm tại mặt trận phi trường Phụng Dực. Đã ba ngày rồi, từ khi lệnh triệt thoái cao nguyên được ban hành, Trung đoàn 53 không còn nhận được bất cứ một tiếp tế, liên lạc nào với Quân đoàn. Họ đã phải sử dụng cả súng đạn tịch thu được của quân thù trong trận đánh đầu tiên, để bắn lại chúng!Nhưng hôm nay, ngày 17 tháng 3, 1975 là ngày dài nhất trong cuộc đời lính chiến của họ!7 giờ 40 phút sáng, khi rừng núi cao nguyên vẫn còn ngủ yên với những lớp sương mù phủ kín, hàng trăm hàng ngàn viện đại bác Bắc quân nã vào những chiến hào của Trung đoàn 53 Bộ binh. Cỏ cây rạp xuống. Những cột đất đỏ từng cụm, từng khóm tung cao!Trận địa pháo kéo dài một tiếng đồng hồ. Tiếp theo sau là tiếng loa kêu gọi đầu hàng.

Tiếng hò reo “sóng vỡ” của biển người. Và rồi tiếng gầm thét của hàng đoàn chiến xa T54 trên khắp ngả tiến vào, cầy nát phi đạo phi trường Phụng Dực Ban Mê Thuột!
Hôm nay là ngày đầu của cuộc rút quân của Quân đoàn II. Sư đoàn 316 Cộng sản Bắc Việt quyết khai tử Trung đoàn 53 Bộ binh, quyết nhổ đi “cái gai” cuối cùng của mặt trận Ban Mê Thuột, của Chiến trường Cao nguyên để tiến về duyên hải.8 giờ 30 sáng, Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, vị Tướng lớn nhất của Quân đội gọi yêu cầu được tường trình đặc biệt về mặt trận phi trường Phụng Dực và các chiến sĩ Trung đoàn 53 Bộ binh.Đây cũng là một vinh dự, một hãnh diện cuối cùng dành cho những dũng sĩ tại mặt trận này! Nhưng Đại tướng Viên chỉ được báo cáo qua nguồn tin không chính xác (!) của bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 hành quân ở Phước An: Trung đoàn 53 Bộ binh đang bị đánh rất nặng,

Bắc quân đã tràn ngập vị trí phòng thủ!
Đạn hết, lương thực hết, không còn cấp chỉ huy, không còn được yểm trợ, không còn máy móc liên lạc để … kêu cứu. Những chiến sĩ Trung đoàn 53 Bộ binh gục ngã từng người, từng tổ, từng … tiểu đội … trong những chiến hào …11 giờ 30 sáng, tiếng súng im bặt. Bắc quân cắm ngọn cờ đỏ trên đài kiểm soát của phi trường Phụng Dực, và thu dọn chiến trường.Không có tù binh, không có cả những người lính bị thương. Những dũng sĩ Trung đoàn 53 Bộ binh không còn chiến đấu nữa. Họ đã tan ra, đã nát ra … từng mảnh vụn, và lẫn trong đất đỏ của miền cao nguyên hùng vĩ!

Ngày 17 tháng 3, 1975 Trung đoàn 53 Bộ binh bị Bắc quân xóa tên. Đó cũng là một ngày đau buồn! Lần đầu tiên trong 21 năm chiến đấu chống cộng, giữ nước, bộ Tư lệnh Quân đoàn II triệt thoái khỏi cao nguyên!
Nhưng không, đó vẫn chưa phải là những dòng chữ cuối cùng viết về các dũng sĩ Trung đoàn 53 Bộ binh! Bởi vì … vẫn còn những anh hùng của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa mang phù hiệu của Trung đoàn 53 … trên vai áo.Hai ngày sau, khi Bắc quân tràn ngập phi trường Phụng Dực, Ban Mê Thuột, một nhóm 16 quân nhân của đơn vị này đã về được Phước An và tiếp tục chiến đấu tại mặt trận Quốc lộ 21.Một tuần lễ sau nữa, ngày 24 tháng 3, 1975 ba người anh hùng khác, sau 7 ngày 7 đêm, đi trên mấy chục cây số đường rừng núi, sống với cỏ cây thiên nhiên, từ Ban Mê Thuột đã lên tới buôn Thượng Dam Rong, Đà Lạt!Họ là những quân nhân bất tử của Trung đoàn 53 Bộ binh! Họ thật vĩ đại, thật phi thường! Và đó cũng là một huyền thoại của chiến tranh Việt Nam trong trận chiến Nam-Bắc sau cùng 1975.Liên tỉnh lộ 7 Pleiku-Phú Bổn-Phú YênNgày thứ nhất 17 tháng 3, 1975.Ngày đầu tiên của cuộc rút quân. Trời mây mù, ảm đạm.

Trong 21 năm chiến đấu chống Cộng giữ nước của quân dân miền Nam, kể từ sau Hiệp định Genève, đây là một ngày đau buồn nhất xảy ra trên Chiến trường Cao nguyên Việt Nam.
Thành phố Pleime nằm trên một ngọn đồi cao, nơi đặt bản doanh của bộ Tư lệnh Quân đoàn II hôm nay không còn vẻ uy nghiêm, hùng vĩ nữa. Cây cột cờ mà mấy ngày trước địch pháo gần trúng, đứng trơ trọi như một thân cây trụi lá. Không còn lá cờ vàng ba sọc đỏ thân yêu, không còn lá cờ tướng với những ngôi sao trắng được kéo lên, như mỗi ngày trước đây!Con đường từ bộ Tư lệnh Quân đoàn về Pleiku kéo dài mấy cây số, và từ những ngả đường khác đổ xô về, người và xe cộ nối đuôi, dồn, lấn, kẹt cứng.Tin Quân đoàn “di tản” đã không còn là một tin “tối mật” như các giới chức quân sự mong muốn. Từ hai ngày nay, mọi người dân Pleiku, mọi gia đình quân nhân, và chắc chắn cả … địch nữa, đều biết. Hỗn loan, cướp bóc, bắn phá xảy ra nhiều nơi, trong và ngoài thị xã.8 giờ 40 phút, cắt đứt mọi liên lạc bằng điện thoại với bộ Tư lệnh Quân đoàn II ở Pleiku. Đoàn xe di chuyển, khoảng 4000 quân xa đủ loại và những xe dân sự.9 giờ 15 phút, Tướng Lê Văn Thân, Phụ tá Quân khu II và Trưởng phòng 3 Quân đoàn bay trên C47, bộ Chỉ huy Hành quân trên không, để quan sát đoàn xe. Thêm một máy bay bay quan sát được lệnh liên lạc thường trực với Tướng Phạm Duy Tất, chỉ huy cuộc rút quân.

Danh hiệu của các cấp chỉ huy trong cuộc triệt thoái Quân đoàn II ngày 17 tháng 3, 1975:
Tư lệnh Quân đoàn – Hiệp TìnhTướng Phạm Duy Tất – Trường AnTướng Trần Văn Cẩm – Phi BảoĐại tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng Quân đoàn – Công DanhĐoàn xe – Công BìnhTrực thăng – Nam Hiền9 giờ 30, Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng phòng 3 bộ Tổng tham mưu gọi ra ghi nhận một lần nữa những rối loạn và tình hình xảy ra thật sự tại Pleiku ngày 16 tháng 3, 1975 để trình thượng cấp.Theo báo cáo của Đại tá Lý gọi thẳng về Saigon, tình hình Pleiku ngày 16 tháng 3, 1975 cực kỳ hỗn loạn. Phi trường Cù Hanh, dân chúng, binh sĩ và gia đình tràn vào. Lực lượng an ninh không giữ được trật tự. Cướp của, hãm hiếp đã xảy ra.Một báo cáo khác của Đại tá Hoàng Thọ Nhu, Tỉnh trưởng Pleiku gọi về Nha Trang trình với Tướng Phú thì, tình hình có rối loạn nhưng không ở mức độ trầm trọng. Bởi vì nếu “cực kỳ hỗn loạn” thì Tướng Tất và bộ Tư lệnh Quân đoàn đã không sắp xếp và tổ chức được đội hình của đoàn xe, hơn 4000 cái di chuyển ngày hôm nay.

“Tiếng nói” của Đại tá Nhu coi như là tiếng nói chính thức, đại diện cho Tướng Tất, người thay Tướng Phú chỉ huy cuộc rút quân!
Tướng Phú giận lắm, nhưng chỉ trình bày với Tướng Thọ, vì Đại tá Lý mất bình tĩnh nên báo cáo không đúng sự thật!!!Đại tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng Quân đoàn II là một sĩ quan rất giỏi về tham mưu và tổ chức. Nhưng vụ Tướng Phú gắn sao cho Đại tá Tất làm ông bất mãn và chán nản. Với sự thông minh và khôn ngoan, ông nhìn thấy trước sự thất bại của Quân đoàn kỳ này trong cuộc rút quân. Do đó, viếc Tướng Phú hứa hẹn cho ông lên Tướng chỉ là một lời hứa viển vông, không bao giờ thành sự thật.Cũng vì vậy, ngay khi Tướng Phú rời Pleiku, ông đã bất chấp mọi lệnh của Tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá Hành quân Tư lệnh Quân đoàn, và Tướng Phạm Duy Tất, chỉ huy cuộc rút quân.Tướng Phú được thông báo về sự việc này, nên khi nghe Đại tá Lý báo cáo thẳng về Saigon những rối loạn, cướp bóc, hãm hiếp xảy ra tại Pleiku đêm 16 tháng 3, 1975 lại cho rằng Đại tá Lý bất mãn, nên phá hoại.

Sự thật những điêu Đại tá Lý trình cho Tướng Thọ đều đúng! Ghi nhận sự kiện này ra đây để nói lên sự đổ vỡ tồi tệ của hệ thống chỉ huy Quân đoàn II. Vì sự đố kỵ, bất mãn, bất lực và vô kỷ luật của cả những sĩ quan cao cấp và có trách nhiệm nhất, đưa đến sự thảm bại nặng nề trong cuộc rút quân khỏi cao nguyên.
10 giờ phi trường Cù Hanh chính thức đóng cửa.10 giờ 15 phút, liên lạc lần cuối cùng giữa Tư lệnh Quân đoàn II và Tướng Cẩm tại Pleiku bằng STS-106. Xác nhận về việc ra lệnh cho Tỉnh trưởng Pleiku phòng thủ tỉnh này. Nghi ngờ hệ thống truyền tin bị địch phá.10 giờ 45 phút, Đại tá Trần Cửu Thiên bay đi Phú Bổn cùng với các chuyên viên truyền tin, thiết lập hệ thống liên lạc để tường trình tình hình đoàn xe từng giơ về Nha Trang, Saigon.10 giờ 50 phút, Tổng Thống Thiệu gọi ra lệnh giải tỏa gấp rút mặt trận Khánh Dương và Quốc lộ 21 bằng mọi giá. Chấp thuận cho Đại tá Nguyễn Văn Đức làm Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh.Chặng đầu của cuộc rút quân Pleiku-Phú Bổn sáng ngày 17 tháng 3,1975 diễn ra tốt đẹp. Hệ thống liên lạc siêu tần số từ Nha Trang và đoàn quân triệt thoái bị gián đoạn trong 2 giờ đầu. Nhưng sau đó, từ 12 giờ 20 phút, mọi liên lạc và báo cáo đều rõ ràng.13 giờ, đoàn xe về gần tới Phú Bổn. Một số xe bị ứ đọng. Nhừng lệnh cần thiết được ban hành. Các Tướng Cẩm và Tất đích thân chỉ huy, điều động. Các đơn vị vào vị trí phòng thủ.

Liên đoàn 6 Công binh Chiến đấu và những đơn vị Biệt động quân tiếp tục mở và dọn đường cho chặng kế tiếp. Lữ đoàn II Thiết giáp và các Liên đoàn Biệt động quân khác đi sau cùng bảo vệ đoàn quân và chiến cụ, đề phòng bị địch đánh tập hậu.
13 giờ 40 phút, Tướng Thọ, Trưởng phòng 3 Tổng Tham mưu gọi ra từ Saigon cho biết, Tổng Thống, Hội đồng Nội các, và các Tướng lãnh khen ngợi Tư lệnh và bộ Tư lệnh Quân đoàn II về cuộc rút quân.
Nhưng đấy chỉ là chặng đầu trên Liên tỉnh lộ 7. Con đường chôn vùi hàng nhiều ngàn xác đồng bào và trẻ thơ vô tội. Chôn vùi tên tuổi tất cả các Tướng lãnh đạo Đất Nước trong những năm sau cùng. Và cũng chính là con đương đưa đến sự sụp đổ mau chóng của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, để rồi miền Nam Việt Nam mất vào tay Cộng sản sau đó.18 giờ 15 phút, Đại tá Tham Mưu trưởng báo cáo về tình hình Phú Bổn. Đã tổ chức, phân loại xe quân đội và dân sự. Ra lệnh các đơn vị không được tự ý tách rời đoàn xe đi riêng.Một sự việc xảy ra vào buổi tối. Lính Thương nổi loạn, đốt nhà, ăn cướp, nhưng chỉ là một nhóm nhỏ. Tỉnh trưởng Phú Bổn đã giải quyết và chận đứng.

Mặt trận Phước An
.    
Bộ Tư lệnh Quân đoàn II, các Lực lương Thiết giáp, Không quân, Pháo binh và Chủ lực quân đã rút khỏi Kontum, Pleiku. Trong 2 ngày nữa, nếu đoàn xe không về tới Phú Bổn như dự định, thì mặt trận Phước An sẽ vô cùng nguy ngập. Bởi vì địch chỉ cần sử dụng một phần lực lượng tại trận địa Ban Mê Thuột hiện nay, với chiến xa và trọng pháo yểm trợ, sẽ dứt Phước An dễ dàng. Và sau đó là Khánh Dương.Kiểm điểm lại quân số của sư đoàn và những đơn vị tăng cường hiện đang ở mặt trận Phước An, Đại tá Đức, tân Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh vô cùng lo ngại.

Lực lương chính yếu của sư đoàn là Trung đoàn 45 Bộ binh. Đơn vị với tinh thần cao độ, đã tình nguyện nhảy xuống Phước An trong đoàn quân tăng viện ngày 12 và 13 tháng 3, thì hôm nay đã tan hàng, trở thành dân sự già nửa quân số.
Buổi sáng, trong đợt di dân mới từ Ban Mê Thuột, khoảng 5000 người đã băng rừng đi về phía Phước An và nam Khánh Dương. Một số lớn là vợ con anh em binh sĩ Trung đoàn 45. Do đó, họ tự động bỏ súng, “chạy loạn” với gia đình.Trung đoàn 45 còn lại đúng 200. Trung đoàn 44 với một Tiểu đoàn Chiến đấu và một Đại đội Trinh sát chưa sứt mẻ, khoảng 300.Liên đoàn 21 Biệt động quân, 110 người. Bộ Tư lệnh Sư đoàn tại Chu Cúc, 42. Hậu trạm tại Khánh Dương, 6.Khoảng 700 tay súng, không chiến xa và có 4 khẩu đại bác 105 ly. Đó là thực lực của mặt trận lớn nhất hiện nay tại Quân khu II. Một trận đánh lớn nếu xảy ra, chắc chắn lực lượng này phải đương đầu với Sư đoàn F10 Cộng sản Bắc Việt từ Ban Mê Thuột kéo về, với quân số 7, 8 ngàn và có chiến xa, đại pháo yểm trợ !“Người lính già” của chiến trường với 25 năm quân ngũ, Tư lệnh phó Biệt khu 44 của Tướng Phú năm 1969, chờ đợi giây phút này từ lâu. Và hôm nay … đã đến. Tổng Thống Thiệu, Đại tướng Viên cùng chấp thuận việc bổ nhiệm ông là Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh!Đại tá Đức khẽ mỉm cười, và tiến lại phía các chiến hữu của mình đang phòng thủ để quan sát.17 giờ, phi cơ quan sát phát hiện khoảng 10 chiến xa địch gần Chu Cúc, xin đánh bom tối đa.5 phi tuần khu trục từ Phan Rang lên.

Điều động trễ 15 phút. Phi tuần 1 lên tới vùng mục tiêu lúc 17 giờ 40 phút. Trời mù, không nhìn rõ, các khu trục cơ phải quay về. Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh vẫn tiếp tục xin Không quân đánh tiếp.
Thêm 2 xe tăng Cộng sản Bắc Việt di chuyển ở phía bắc cây số 62, mặt trận Khánh Dương. Và tin tình báo mới nhất thâu thập được qua một tù binh Bắc Việt bắt được ngày 16 tháng 3, 1975, hai Trung đoàn 64 và 48 Cộng sản Bắc Việt đã di chuyển tới tây bắc Khánh Dương khoảng 20 cây số. Lực lương Sư đoàn 23 Bộ binh sẽ cùng phối hợp với 2 Tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 22 Bộ binh tăng cường tổ chức tuyến phòng thủ, chận đứng cuộc tiến quân xuống Khánh Dương, Dục Mỹ của địch.Nhưng cũng chỉ là trứng chọi đá! Quả thật trong trận này, lực lượng Việt cộng và quân ta quá chênh lệch!Một sự việc cuối cùng và đặc biệt xảy ra hôm nay mà tôi ghi nhận, đó là yêu cầu của 2 Tỉnh trưởng Kontum và Pleiku xin máy bay chở bạc về Tổng Ngân Khố, Saigon.Bộ Tư lệnh Quân đoàn lúc đầu chấp thuận, nhưng sau lại hủy bỏ. Vì phi trường Cù Hanh, Pleiku đã đóng cửa từ lúc 10 giờ sáng. Và, số bạc khổng lồ của 2 tỉnh liền được … đốt đi!

Đây cũng là một sự việc cực kỳ khó hiểu. Tại sao các Tỉnh trưởng Kontum, Pleiku được “ủy quyền” ở lại phòng thủ 2 thị xã này, lại xin máy bay chở bạc, và sau đó “đốt” đi hàng trăm triệu bạc, ngay cùng ngày Quân đoàn vừa di tản khỏi Pleiku?
Tôi quá mệt mỏi nên đã không tìm hiểu “lệnh đốt bạc” từ đâu tới. Từ Saigon hay từ bộ Tư lệnh Quân đoàn II?

NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA TƯỚNG PHẠM VĂN PHÚ- CHIẾN SĨ ANH HÙNG QL/VNCH

 (Vương Hồng Anh)

Thiếu Tướng Phạm Văn Phú sinh năm 1929 tại Hà Đông, Bắc Việt. Sau khi tốt nghiệp học khóa 8 trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt vào giữa năm 1953, ông đã tình nguyện phục vụ trong binh chủng Nhảy Dù. Ngày 14 tháng 3/1954, trong tình hình chiến trường Điện Biên Phủ vô cùng sôi động, ở cấp bậc Trung Úy ông đã chỉ huy một đại đội của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, nhảy xuống Natasha, một vị trí sát phi đạo chính. Sau hơn một hơn tháng liên tục giao tranh với Việt Minh, ngày 16 tháng 4/1954, Trung Úy Phạm Văn Phú đã chỉ huy một thành phần của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù cùng với các đơn vị bạn phản công tái chiếm một cứ điểm trọng yếu. Sau trận phản công này, ông được thăng cấp Đại Úy tại mặt trận khi vừa đúng 25 tuổi, và đến ngày 26 tháng 4/1954, được cử giữ chức Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù. Ngày 7/5/1954, Điện Biên Phủ thất thủ, ông bị địch quân bắt giam. Sau 20/7/1954 (Hiệp định Genève), ông được trao trả và tiếp tục phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).

Năm 1960, được tuyển chọn để phục vụ trong binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt. Cuối năm 1962, thăng cấp Thiếu Tá và giữ chức vụ Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn Quan Sát 77 Lực Lượng Đặc Biệt. Giữa tháng 5/1964, ông đã chỉ huy liên đoàn này đánh tan Trung Đoàn 765 Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) tại Suối Đá, Tây Ninh. Gần cuối năm 1964, ông được thăng Trung Tá và giữ chức tham mưu trưởng Lực Lượng Đặc biệt. Một năm sau, ông được thăng Đại Tá nhiệm chức.
Đầu năm 1966, không hiểu vì lý do gì, ông bị vị Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt trình Bộ Quốc Phòng thâu hồi cấp Đại Tá nhiệm chức và thuyên chuyển ra miền Trung, giữ chức Phụ Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh, giữa năm 1966, ông là Đại Tá Tư Lệnh Phó, xử lý thường vụ Tư Lệnh Sư Đoàn này. (Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh là Thiếu Tướng Hoàng Xuân Lãm, được cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn 1 Vùng 1 Chiến Thuật vào cuối tháng 5/1966). Cuối năm 1966, ông được điều động ra Sư Đoàn 1 Bộ Binh làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn. Giữa năm 1968, được cử giữ chức vụ Tư Lệnh Biệt Khu 44 (bao gồm các tỉnh biên giới ở miền Tây Nam phần). Năm 1969, được thăng cấp Chuẩn Tướng tại mặt trận. Đầu năm 1970, chuẩn Tướng Phú được cử thay thế Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng trong chức vụ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc biệt.
Gần cuối tháng 8/1970, Tướng Phú được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh thay thế Thiếu Tướng Ngô Quang Trưởng, được cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn 4. Tháng 3/1971, ông được thăng Thiếu Tướng tại mặt trận sau cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào (ngoài Tướng Phú, có hai Đại Tá được thăng cấp chuẩn tướng: Đại Tá Vũ Văn Giai — Tư Lệnh phó Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Đại Tá Hồ Trung Hậu — Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Nhảy Dù). Trong cuộc chiến mùa Hè 1972, ông đã điều động, phối trí các trung đoàn của Sư Đoàn 1 Bộ Binh giữ vững phòng tuyến Tây Nam Huế. Do điều kiện sức khỏe, đến tháng 9/1972, ông bàn giao Sư Đoàn 1 Bộ Binh cho Đại Tá Điềm, Tư Lệnh Phó, xử lý thường vụ. Từ 1973 đến tháng 10/1974, ông giữ chức chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn luyện Quang Trung. Tháng 11/1974, thể theo đề nghị của Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm và Phó Tổng thống Trần Văn Hương, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã ký sắc lệnh cử ông giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 và Quân Khu 2 thay thế Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn.(Tướng Toàn trở lại binh chủng Thiết giáp, giữ chức chỉ huy trưởng).
Nhận chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 không phải do chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lựa chọn, hoặc do Đại Tướng Cao Văn Viên — Tổng tham mưu trưởng — đề nghị, nên Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã gặp nhiều khó khăn trong việc sắp xếp nhân sự cao cấp phụ tá ông để điều hành bộ Tư Lệnh. Thông thường, các Tư Lệnh Quân Đoàn được quyền chọn lựa tham mưu trưởng, sau đó, bộ Tổng tham mưu sẽ ban hành quyết định hợp thức hóa, thế nhưng Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã bị bộ Tổng tham mưu “hạn chế” các quyền hạn dành cho Tư Lệnh Quân Đoàn. Khi Tướng Phú nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn 2, vị tham mưu trưởng đương nhiệm là Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm. (Trong thời gian từ 1967 đến tháng 6/1968, khi Tướng Phú còn mang cấp Đại Tá và giữ chức vụ Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 1 Bộ Binh thì tướng Cẩm còn là Trung Tá, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn này).
Trong những tuần lễ đầu tiên, Tướng Phú đã hai lần đề nghị hai vị Đại Tá giữ chức vụ tham mưu trưởng Quân Đoàn thay chuẩn tướng Cẩm được bổ nhiệm làm Phụ Tá Hành Quân Tư Lệnh Quân Đoàn 2, nhưng cả hai lần đều bị Trung Tướng Đồng Văn Khuyên tham mưu trưởng Liên quân trình với Đại Tướng Cao Văn Viên bác bỏ. Cuối cùng, theo đề nghị của Trung Tướng Khuyên, Đại Tướng Cao Văn Viên đã bổ nhiệm Đại Tá Lê Khắc Lý, nguyên tham mưu trưởng bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 1 giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn 2. Dù vị tham mưu trưởng không do mình chọn lựa, nhưng Tướng Phú đã tin dùng và ủy nhiệm cho Đại Tá Lê Khắc Lý nhiều quyền hạn trong việc điều hành Bộ Tư Lệnh.
Trước khi cuộc chiến Cao Nguyên (năm 1975) bùng nổ, Tướng Phú được Đại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 Quân Đoàn trình bày về các khả năng Cộng quân sẽ mở cao điểm tại Ban Mê Thuột, thế nhưng không hiểu vì sao, Tướng Phú không tin và nhận định rằng Pleiku mới là chiến trường trọng điểm, còn Ban Mê Thuột là mặt trận phụ mà Cộng quân muốn tạo thế trận nghi binh. Trận chiến Ban Mê Thuột đã bùng nổ vào rạng sáng ngày 10 tháng 3/1975. Bốn ngày sau, vào trưa ngày 14 tháng 3/1975, trong một cuộc họp đặc biệt tại Cam Ranh, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú triệt thoái toàn bộ Quân Đoàn 2 khỏi Cao nguyên.
Sau khi lực lượng Quân Đoàn 2 triệt thoái khỏi Nha Trang, 1 giờ 45 trưa ngày 2 tháng 4/1975, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú và vài sĩ quan thân tín đã bay đến ngọn đồi “Lầu Ông Hoàng” để chờ Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu — Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 3 — tới nhận bàn giao phần lãnh thổ cuối cùng của Quân Khu 2 được lệnh sát nhập vào Quân Khu 3. Vào giờ phút đó, quanh Tướng Phú chỉ có: Đại Tá Đức –nguyên Phụ Tá Tư Lệnh Quân Đoàn 2 đặc trách lực lượng diện địa; Thiếu Tá Vinh, chánh văn phòng; Thiếu Tá Hóa, sĩ quan tùy viên, và Thiếu Tá Phạm Huấn, sĩ quan Báo chí. Chính tại đây, Tướng Phú đã có quyết định tự sát, nhưng Đại Tá Đức đã kịp thời cản ông. Theo lời kể của Thiếu Tá Phạm Huấn, vào lúc 2 giờ 12 phút cùng ngày, Thiếu Tá Hóa tới trình cho Tướng Phú là trực thăng của Tướng Hiếu sắp đáp xuống. Khi đó, Thiếu Tá Huấn đứng gần Tướng Phú, thấy đôi mắt Tướng Phú như muốn tóe lửa. Và sau khi Thiếu Tá Hóa quay gót, Tướng Phú vất điếu thuốc lá đang cầm trên tay xuống đất. Rất nhanh, ông rút khẩu súng ngắn nòng ra khỏi vỏ. Nhưng tiếng hét thất thanh của Đại Tá Đức: “Thiếu Tướng”. Khẩu súng trên tay Tướng Phú bị gạt bắn xuống đất. Sự việc này xảy ra quá bất ngờ…
Giữa tháng 4/1975, Tướng Phú lâm bệnh, vào điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hòa. Ngày 15 tháng 4/1975, Đại Tá Phạm Văn Chung, cựu Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến, nguyên tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Quảng Nam, đã vào thăm Tướng Trưởng và Tướng Phú đang nằm dưỡng bệnh. Chính trong lần thăm này, Đại Tá Chung đã nghe Tướng Phú trăn trối, và kể lại như sau:
Rời phòng Trung Tướng Trưởng, tôi (Đại Tá Chung) qua phòng kế bên cạnh là phòng của Thiếu Tướng Phú, cũng đang nằm dưỡng bệnh kế đó. Bước vào phòng tôi thấy Thiếu Tướng Phú đứng dậy ngay và bắt tay tôi bằng một giọng hằn học, tức tối:
“Anh Chung, anh từng hành quân với tôi đã lâu…”
Nói đến đây Thiếu Tướng Phú ôm tôi và khóc tiếp với giọng nghẹn ngào, tức tối:
“…mà đêm qua, Tổng Thống Thiệu lên đài nói chuyện và đổ tội cho các tướng lãnh là hèn nhát bỏ chạy. Anh cứ về hỏi Trung Tướng Trưởng xem, trong buổi họp hôm trước, có cả Trung Tướng của anh nữa đấy, tôi đã xin Tổng Thống cho tôi giữ Pleiku bằng mọi giá, Tổng Thống không chịu, bắt tôi phải rút… có cả Đại Tướng Viên và Đại Tướng Khiêm nghe nữa mà bây giờ Tổng Thống nói chuyện với toàn dân đổ tội cho chúng tôi, thật cái nhục này tôi không biết tỏ cùng ai, không biết đồng bào có hiểu không, chỉ có cách chết mới hết nhục”.
Tôi (Đại Tá Chung) không khỏi ngậm ngùi thương xót chia xẻ nỗi oan ức của một vị đàn anh đáng kính như Thiếu Tướng Phú, nên tôi hết lời an ủi và khuyên Thiếu Tướng hãy bình tỉnh và nên tĩnh dưỡng.
Đó là lần cuối cùng Đại Tá Chung gặp Tướng Phú. Sáng ngày 29 tháng 4/1975, tại căn nhà riêng ở đường Gia Long, chờ khi vợ và các con rời nhà để đi về phía Trường Đua Phú Thọ tìm cách di tản, Tướng Phú đã uống một liều thuốc cực mạnh tự tử. Người em trai của bà Phú sau khi biết tin này đã chạy tới vào cho bà biết. Cả gia đình quay về. Theo lời kể của con trai Tướng Phú, đã vượt biên sang Mỹ, những giờ cuối của Tướng Phú được ghi nhận như sau: Nhờ có các bác sĩ Pháp gần nhà giúp đỡ, Tướng Phú được đưa vào bệnh viện Grall để cấp cứu. Nhưng Tướng Phú mê man liên miên, mãi đến trưa ngày 30/4/1975, ông mới tỉnh được giây lát và thều thào hỏi người vợ đang ngồi cạnh:
– Tình hình đến đâu rồi?
Bà Phú nói:
– Tướng Dương Văn Minh ra lệnh Quân đội bỏ súng đầu hàng, và Cộng sản đã vào tới Sài Gòn!
Nghe xong Tướng Phú nhắm mắt lại và “ra đi”.


TIẾN SỸ LÊ HIỂN DƯƠNG, CỰU HIỆU TRƯỞNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP: 
“GIẢI PHÓNG” NỖI KINH HOÀNG CỦA NGƯỜI DÂN VIỆT NAM

Ngày nay hầu như nhân loại trên khắp hoàn cầu đều lấy năm Chúa Kitô giáng sinh làm mốc định thời gian, chúng ta đang ở vào năm 2010, tức là 2010 năm kể từ ngày Chúa giáng thế. Nhiều sự kiện khoa học hay lịch sử cũng được xác định dựa trên mốc thời gian này cho dù những dữ kiện đó hoàn toàn không liên quan gì đến niềm tin tôn giáo hay tín ngưỡng. Chẵng hạn nhà toán học Pythagore sinh năm 580 và mất năm 500 trước Công Nguyên, Tề Hoàn Công trị vì từ năm 685 đến năm 643 trước Công Nguyên… Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng xảy ra năm 42 sau Công Nguyên… Các văn bản bằng tiếng Anh thì dùng BC (before Christ) hoặc AD (Anno domini) để chỉ những sự kiện xảy ra trước hoặc sau Thiên Chúa giáng thế.

Riêng người Việt nam chúng ta từ trong Nam ngoài chí Bắc từ sau 30 tháng tư năm 1975 lại có một mốc định thời gian mới: “hồi trước giải phóng” hay “hồi sau giải phóng”, tất nhiên người Việt mình nghe mãi rồi quen tai và không thấy gì phản cảm khi dùng hoặc nghe cụm từ này… Nhưng khi tôi vô tình dùng nó lúc nói chuyện với một đồng nghiệp người nước ngoài rằng “…after the liberation of the south…” thì ông ta sững sốt hỏi ngay rằng “… liberation from what?…” – Giải phóng khỏi cái gì? Thì tôi mới hốt hoảng với cách dùng cụm từ này để định mốc thời gian của người Việt… bởi đối với hầu hết người Việt, nhất là người miền Nam hoặc đối với cả đồng bào miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 nữa, thì “giải phóng” là một nỗi ám ảnh trong cả đời người…

Video: “GIẢI PHÓNG” NỖI KINH HOÀNG CỦA NGƯỜI DÂN VIỆT NAM
Còn nhớ ngày 30 Tư năm 1975, lúc đó chúng tôi còn là sinh viên của đại học sư phạm Vinh đã hồ hởi, phấn khởi hò reo meeting nhiều đêm ngày để mừng Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, bởi chúng tôi tin rằng từ đây đồng bào Miền Nam ruột thịt của chúng tôi sẽ không còn đói rách lầm than và không còn sống trong cảnh “ngụy kềm, Mỹ hãm” nữa… Họ đã được đảng và Bác cùng nhân dân Miền Bắc chúng tôi giải phóng. Và những tháng tiếp theo đó chúng tôi được tận mắt nhìn thấy hàng đàn hàng lủ bọn ngụy quyền ác ôn bị sự trừng phạt của chính quyền cách mạng, của nhân dân miền Bắc và của chính chúng tôi… Số là mỗi tuần một lần. chúng tôi được chính quyền và ban giám hiệu nhà trường thông báo vào những ngày giờ có những ô tô của cục quân pháp chuyển tù cải tạo là những sỹ quan, ngụy quyền ác ôn của chính quyền Mỹ Thiệu đi ngang qua địa phương để đến các trại cải tạo ở mạn ngược. Cùng với đồng bào địa phương, mỗi sinh viên chúng tôi phải chuẩn bị đầy đủ cơ số đá trứng nhặt từ đường ray xe lửa để khi đoàn xe tù đi ngang qua là hô hào toàn dân trút những trận mưa đá lên đầu những tên ngụy quyền ác ôn này, bởi chúng có quá nhiều nợ máu với nhân dân, với đất nước… Và sau mỗi lần trừng trị bọn ngụy quyền ác ôn đó, chúng tôi đều có hội họp, báo công và được tuyên dương khen thửơng, được kết nạp vào đoàn, được vinh dự đứng vào hang ngũ của đảng vì đã đả thương được bao nhiêu sỹ quan ngụy quyền đó. Tất nhiên là cũng có nhiều buổi họp báo công, chúng tôi cũng bị phê bình kiểm điểm vì đã không có trường hợp thương vong nào được ghi nhận trong những vụ “tập kích” đó…
Kết thúc 4 năm đại học với vô số những cuộc tập kích để ném đá vào những xe chuyển tù, rồi chúng tôi cũng tốt nghiệp đại học, rồi được đảng và nhà nước chi viện vào miền Nam để mang ánh sáng văn hóa vào cho đồng bào miền Nam ruột thịt bao năm qua sống trong u tối lầm than vì cứ liên miên bị ngụy kềm, Mỹ hãm chứ đâu có được học hành gì…
Chúng tôi thực sự choáng ngợp khi xe qua khỏi vùng chiến sự Quảng Trị, đến Huế, đến Đà Nẵng.. rồi Nha Trang, Sài Gòn rồi về Miền Tây, đến thị trấn Cao Lãnh, đâu đâu cũng lầu đài phố xá chứ có tường đất mái tranh như ở thành phố Vinh chúng tôi đâu!
Nhận xong nhiệm sở từ ty giáo dục Đồng Tháp, chúng tôi được đưa về công tác tại trường trung học sư phạm Đồng Tháp ngay tại trung tâm của thị trấn Cao Lãnh, và tại đây, trong suốt nhiều năm liền chúng tôi được bố trí ở tại khách sạn Thiên Lợi mà chính quyền cách mạng đã tịch biên từ tên tư sản Thiên Lợi… Chúng tôi đi từ choáng ngợp này đến choáng ngợp khác, bởi đây là lần đầu tiên chúng tôi biết được thế nào là “Khách Sạn”, biết được thế nào là lavabo là hố xí tự hoại, bởi cả thành phố Vinh, cả tỉnh Nghệ An chúng tôi hay thậm chí cả miền Bắc XHCN lúc bấy giờ chỉ sử dụng hố xí lộ thiên, để còn dùng nguồn “phân Bắc” này để canh tác, để tăng gia sản xuất theo sáng kiến kinh nghiệm cấp nhà nước của đại tướng Nguyễn Chí Thanh mà được bác Hồ khen thưởng và có thơ ca ngợi rằng:
“Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh
Anh về phân Bắc, phân xanh đầy nhà”…
Thậm chí ở xã Hưng Lĩnh, Hưng Nguyên quê tôi lúc bấy giờ còn có cả những vụ án các tập đoàn viên, các hợp tác xã viên can tội trộm cắp phân bắc từ các hố xí của láng giềng để nộp cho hợp tác xã… Tôi thấm thía hơn với những câu thơ ca ngợi miền Bắc đi lên XHCN của Tố Hữu mà ngoài sinh viên học sinh chúng tôi ra thì hầu như cả nhân dân miền Bắc lúc bấy giờ ai cũng thuộc nằm lòng:
“Dọn tí phân rơi nhặt từng ngọn lá
Mỗi hòn than mẩu thóc cân ngô
Hai tay ta gom góp dựng cơ đồ…”
Tôi bắt đầu nghi ngờ với cụm từ “giải phóng miền nam” … Rồi những trận đổi tiền để đánh tư sản, rồi nhiều nhà cửa của đồng bào bị tịch biên, rồi hàng triệu đồng bào bắt đầu bỏ nước ra đi, nhiều giáo sinh của trường chúng tôi cũng vắng dần theo làn sóng đi tìm tự do đó… tôi bắt đầu hiểu đích thực ý nghĩa của cụm từ “giải phóng niền nam” và bắt đầu cảm thấy xấu hổ cho bao nhiêu năm sống trong niềm ảo vọng mù quáng của bản thân… mà dù ở chừng mực nào cũng được xem là thành phần trí thức trong xã hội…

Dần dần tôi hiểu sâu hơn cái sự mỉa mai chua chát của hai từ “GIẢI PHÓNG” đang được dùng trong kho tàng Tiếng Việt của nước nhà… “Giải phóng miền nam” thực sự có mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc vô biên và cả sự thịnh vượng nữa với gia sản có thể đột ngột tăng lên cả 16 tấn vàng ròng… những tất nhiên chỉ cho một thiểu số trong xã hội, chỉ chừng 16 người trong tổng số non 50 triệu dân lúc bấy giờ thôi… Còn lại thì “giải phóng” đồng nghĩa với cảnh côi cút vì “sinh bắc tử nam” mất con, mất chồng, mất cha, mất anh mất em bởi họ đã vào chiến trường và không bao giờ trở về nữa… Giải phóng cũng có nghĩa là tù đày, là cải tạo nơi rừng thiêng nước độc, là mất vợ.. mất con, mất nhà cửa ruộng vườn, mất bao nhiêu người thân trên biển cả và mất hết tự do dân chủ nhân quyền và mất luôn cả tổ quốc! Rồi “giải phóng mặt bằng” cũng chỉ mang nguồn lợi lớn lao cho một nhóm quan phương, nhưng lại là nỗi ám ảnh nỗi hãi hùng của muôn dân, bởi sau “giải phóng mặt bằng” là hàng trăm đồng bào lại phải vô tù ra khám bởi tội “chống người thi hành công vụ”, bởi sau giải phóng mặt bằng là cái chết của thiếu niên Lê Xuân Dũng và Lê Hữu Nam, là thương tật của nông dân Lê Thị Thanh …

Chẳng biết người dân Việt nam từ nay còn dùng cụm từ “trước ngày giải phóng” hay “ sau ngày giải phóng” để định mốc thời gian nữa không… Riêng tôi, tôi cảm thấy quá căm thù nhân loại bởi đã bịa ra từ ngữ “giải phóng” và “giải phóng mặt bằng” mà chi để dân Việt chúng tôi vì nó mà phải khổ lụy đến dường này.

Tiến Sỹ Lê Hiển Dương – Cựu Hiệu Trưởng Đại Học Đồng Tháp, 
Viêt cho toàn thể đồng bào miền Nam nhân ngày kỷ niệm 30-4 từ Đông Tháp, VN

Mỗi 30 tháng 4 về, em buồn lắm anh ơi!

Đặng Huy Văn (Danlambao) - (Nhân kỷ niệm ngày 30/4/1975-2019)

Em đi tìm hài cốt của anh giữa Trường Sơn bao la
Hơn bốn chục năm trời tìm hoài mà chưa thấy
Ngày anh lên đường, em vừa mang bầu con gái
Nay con đã lấy chồng, em đã thành bà ngoại, anh ơi!

Đứng giữa điệp trùng Trường Sơn, em khấn vái đất trời
Đất ở ngay dưới chân, còn trời cao vời vợi
Trời đất thấu chăng trái tim em đau nhói
Đang đi tìm đưa hài cốt của anh về cánh đồng tuổi thơ ngây

Nơi ngày xưa hai đứa chúng mình từng chăn trâu cắt cỏ ngày ngày
Đến mùa hè anh thường trèo vào đền hái xoài xanh chấm muối
Rồi hai đứa đi học cùng nhau anh lớp trên em lớp dưới
Và dần dà đã trộm nhớ thầm yêu chẳng rõ tự bao giờ?

Sau ngày anh lên đường, đêm nào em cũng sống trong mơ
Phòng tân hôn của hai vợ chồng mình hoa vẫn còn tươi và tỏa tràn hơi ấm
Đêm đêm em chỉ lặng lẽ khóc thầm chúc anh lên đường may mắn
Sớm bình an trở về với mẹ yêu dấu và em!

Bỗng anh ghé qua nhà đường đột giữa trời đêm
Chính đêm đó em mới biết thế nào là hạnh phúc
Nhưng mới chỉ được hai hôm đơn vị anh đã dục
Anh lại khoác ba lô lên đường mà chưa biết mình đang sắp có tin vui.

Thư anh gửi về từ Trường Sơn chỉ vài lá rồi thôi
Nghe nói anh vừa vào tới chiến trường, đường dây mất liên lạc
Rồi mười tháng sau giấy báo tử gửi về mà em vẫn không tin là anh đã mất
Bởi anh chưa được biết chúng mình đã có con gái anh ơi!

Sau 30/4/1975, đồng đội của anh về thỉnh thoảng ghé qua chơi
Mới cho biêt xác của anh được lấp vội vào một đêm bên hốc núi
Nằm đâu đó giữa rừng già Trường Sơn chẳng ai còn nhớ nổi
Không rõ là mé Trường Sơn Đông hay mãi tận Trường Sơn Tây?

Mẹ nhớ thương anh cứ niệm Phật đêm ngày
Em thao thức mong tìm được hài cốt của anh về không đêm nào thẳng giấc
Chỉ gió khẽ động ngoài hiên cũng làm em chợt thức
Tưởng hương hồn của anh ghé về thăm đứa cháu ngoại thơ ngây

Có lần em đi từ Trường Sơn Đông qua Trường Sơn Tây
Giữa đầu hè gió Lào về suốt đêm ngày lồng lộng
Xác anh đang lưu lạc nơi đâu lẽ nào không thấy nóng?
Bởi gió vượt Trường Sơn Tây như thiêu cháy thây người!

Mỗi 30 tháng Tư về, em buồn lắm anh ơi!
Thấy bạn học cùng lớp của anh ngày xưa nay gia đình sum họp
Càng thương đứa cháu ngoại đêm ngày hỏi ông đâu, mà em thầm khóc
Bởi cháu ngoại của chúng mình còn thơ ngây đâu hiểu được vì đâu?

Ai đã gây ra cuộc chiến tranh Bắc Nam để ruột thịt giết nhau?
Ai đa cấp súng đạn cho chúng ta xáo thịt nồi da hai mươi năm trời ròng rã?
Ai đã rước cố vấn Trung Quốc vào và dâng cộng Tàu biển cả?
Ai đã xây nên "thiên đường trên mặt đất" chôn xác bốn triệu người?

Ai đã khiến hàng chục vạn thuyền nhân lênh đênh chìm trên biển cả, anh ơi?
Và hơn nửa triệu tù binh đã bị "Bên thắng cuộc" bắt tù đày hãm hại?
Ai đã dồn hàng mấy triệu dân đen phải vượt biên trong những đêm dài kinh hãi?
Và ai đã đàn áp hàng triệu Mẹ Dân Oan Việt Nam đang dài cổ kêu trời?...

30 tháng Tư đã đi qua bốn mươi bốn năm rồi
Còn bao nhiêu vạn bà mẹ còn ngóng chờ hài cốt của con như mẹ mình, anh hỡi?
Em chỉ thương mẹ già của chúng ta lúc lâm chung hấp hối
Vẫn kêu hoài trong vô vọng đợi chờ cho tới lúc ngừng thở: "Con trai ơi!"

Hà Nội, 28/4/2019
1 | SỰ KIỆN 30.4.1975 NHÌN TỪ NHIỀU PHÍA | MỸ ĐÃ ĐỊNH BỎ RƠI ĐỒNG MINH NHƯ THẾ NÀO? 32K views · 1 year ago THEO DÒNG LỊCH SỬ ...more ...
YouTube · Nguyễn Toàn Thắng Official · Jan 23, 2024
Đến từ hồi nào? Bằng cách nào? Tháng 4 năm nay là năm tưởng niệm thứ 46 biến cố Tháng Tư Đen, một biến cố mất nước khiến cho hàng trăm ngàn ...
Facebook · Việt Nam Hoài Niệm & Hôm Nay & Mai Sau · Jul 1, 2024
Cộng đồng người Việt ở khu vực thủ đô Hoa Kỳ ngày 28/4 tổ chức lễ tưởng niệm biến cố 30/04/1975 tại trung tâm thương mại Eden, ...
YouTube · VOA Tiếng Việt · Apr 29, 2024
30 Tháng 4 năm1975 Tại #SàiGòn Chính quyền Việt Nam Cộng hòa (VNCH) sụp đổ, kết thúc chiến tranh Việt Nam. Sự kiện này cũng đánh dấu thất ...
YouTube · Sử Ký Kiến Thức · Dec 25, 2024
ANTV | Góc nhìn chuyên gia | 11h30 ngày 30/4/1975, khi lá cờ cách mạng tung bay trên thành lũy cuối cùng của chính quyền Sài Gòn cũng là lúc ...
YouTube · ANTV - Truyền hình Công an Nhân dân · Apr 30, 2022
Người Việt hải ngoại tưởng niệm biến cố 30/4/1975 (VOA) · Comments72.
YouTube · VOA Tiếng Việt · Apr 26, 2021
Tôi là một sỉ quan VNCH (sinh năm 52) Ngày 30/4/75 tôi đã được xum hợp mấy anh em ruột cũa tôi phía bên kia . Mừng muốn chết !
YouTube · PhoBolsaTV · Apr 21, 2023
Báo Bình Dương điện tử - www.baobinhduong.vn. Tổng Biên Tập: LÊ MINH TÙNG. Phó Tổng Biên Tập: HUỲNH MINH DÂN - NGUYỄN QUỐC LIÊM.
Báo Bình Dương · 6 days ago
Vietnam Plus | Gần 50 năm đã trôi qua kể từ thời khắc lịch sử đánh dấu thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất nước.
YouTube · Vietnam Plus · 2 weeks ago
namhoaaudio #NamHòa #namhoa Tôi cũng viết bài này để tưởng nhớ đến người bạn thân, BS Bùi Cao Đẳng, Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn 1 ND, ...
YouTube · Nam Hòa · Aug 23, 2021
30/4/1975. Biến cố lịch sử oan nghiệt này đã khiến hàng triệu người Việt Nam phải bỏ quê cha đất tổ, ra đi tìm tự do.
YouTube · SBTNOfficial · Apr 27, 2024
là nhân chứng trong các sự kiện lịch sử cận đại. Dự án này là một công trình nghiên cứu mục đích sưu tầm, lưu ... biến cố lịch sử của dân ...
YouTube · Vietnamese Museum · Jul 21, 2024
MỸ ĐÃ NHÌN NHẬN THẾ NÀO VỀ CUỘC CHIẾN TRANH HỌ GÂY RA TẠI VIỆT NAM? SỰ KIỆN 30 THÁNG 4 NĂM 1975 · Comments811.
YouTube · Nguyễn Toàn Thắng Official · Apr 16, 2024
0:00 Thời sự Việt Nam: 0:54 Việt Nam rầm rộ diễn tập cho ngày 30/4 2:12 Việt-Anh phối hợp trục xuất người Việt tới Anh bất hợp pháp 3:15 Quỹ ...
YouTube · VOA Tiếng Việt · 1 month ago
Lễ Diễu binh, diễu hành kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5-2024)
YouTube · Báo Quân đội nhân dân Điện tử · May 6, 2024
Keywords: lễ diễu binh 30 tháng 4, kiến thức lịch sử Việt Nam, sự kiện văn hóa Việt Nam, ngày giải phóng miền Nam, kỷ niệm 30/4, diễu binh ...
TikTok · cosendaysu · 2 weeks ago
Việt Nam đã thực hiện công tác hoà hợp dân tộc ngay từ trong cuộc chiến cũng như sau khi hoà bình được lập lại. Trong quá trình hoà hợp dân ...
YouTube · VTV4 · May 3, 2023
Chiến thắng Xuân Lộc: Mở “cánh cửa thép” tiến vào giải phóng Sài Gòn | Đảng với Dân #dangvoidan #phimtàiliệu #giaiphongmiennam #xuânlộc Sau ...
YouTube · Đảng với Dân · Jun 10, 2023
#NoiVongTayLon #50nam30thang4cungVTV. Keywords: Bản tin lịch sử 30/4/1975, BTV Kim Huệ, chiến thắng 30/4, hồi tưởng lịch sử Việt Nam ...
TikTok · vtvindex · 1 week ago
một phút tưởng niệm tới các chiến sĩ VNCH một thời đã xa. 25:12 · Go to channel · Tại sao DÂN VIỆT vẫn cố VƯỢT BIÊN dù KHÔNG PHẢI VNCH ? THEO ...
YouTube · THEO DẤU GIÀY SÔ · Feb 6, 2024
894 Lượt thích,58 Bình luận.Video TikTok từ Sài Gòn City View (@saigoncityview): "Khám phá diễn tập máy bay quân sự ấn tượng tại Sài Gòn ...
TikTok · saigoncityview · 1 month ago
Trận Buôn Ma Thuột là trận đánh mở đầu trong Chiến Dịch Tây Nguyên do Quân giải phóng phát động tấn công ngày 10 tháng 3 năm 1975 vào Thị xã ...
YouTube · Tung Tăng Khắp Miền · Jan 13, 2023
Khám phá vẻ đẹp Việt Nam qua video kỷ niệm 30/4. Cùng chiêm ngưỡng cảnh đẹp và lễ duyệt binh. #giaiphongmiennam3041975 #hoaninh # ...
TikTok · an_ho_and_friends · 3 days ago
23.5K Lượt thích,389 Bình luận.Video TikTok từ TIN TỨC QUÂN SỰ VIỆT NAM (@siolibra2816): "Khám phá sơ đồ diễu binh 2025 với các khối quân ...
TikTok · siolibra2816 · 6 days ago
Tự hào vì sinh ra là một người con Việt Nam. Cảm ơn các bậc tiền bối đã hi sinh để con có được một Việt Nam hôm nay.
YouTube · Truyền hình Đài Tiếng nói Việt Nam - VOVTV · May 8, 2024
"Kể từ sau ngày 30.4.1975, nghĩa trang quân đội Biên Hòa được giao cho Quân khu 7 thuộc Bộ Quốc phòng quản lý. Tháng 11.2006, Thủ tướng ...
YouTube · MrVu · Mar 5, 2024
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, một mốc son chói lọi, rực rỡ như phượng hoàng lửa tung cánh giữa bầu trời lịch sử Việt Nam. Đó là ngày mà quân và dân ...
TikTok · vudaden789 · Apr 29, 2023
Nhân kỷ niệm 75 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947 - 27/7/2022) đoàn đại biểu Đoàn thanh niên Công ty Truyền tải điện (PTC1), ...
evnnpt · Đào tạo Truyền tải Điện 1 · Jul 27, 2022
Sau khi định cư tại Hoa Kỳ tiếp theo sau biến cố 30/4/75, bà đã không ngừng phấn đấu để làm lại cuộc đời từ con số không, tìm lại cho mình một ...
Facebook · VOA Tiếng Việt · Oct 29, 2019
Keywords: diễn tập lễ kỷ niệm 30 tháng 4, Dinh Độc Lập sự kiện 2025, 50 năm giải phóng miền Nam, kỷ niệm Giải phóng 30 tháng 4, sự kiện lớn tại ...
TikTok · chillcungminhcafe · 6 days ago
-Chiều ngày 30 tháng 4, sau khi cho binh sĩ rời đơn vị theo lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh, nửa đêm về sáng ngày 1 tháng 5 ông đã (...) ...
TikTok · tranphivu1983 · Aug 21, 2024
Cấm xe và người đi bộ sau 18h 22/4 tại một số tuyến đường trung ... Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975. Hiện nay, Dinh Độc Lập đã được Chính ...
TikTok · duonggiaothong · 2 weeks ago
CUỘC THI TÌM HIỂU VỀ 70 NĂM CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ 70 NĂM NGÀY KÝ HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ - CHẶNG 1, TUẦN 3.
Facebook · Cổng thông tin Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh · Jan 5, 2024
#DinhThongNhat #HoChiMinhCity #sukienquocgia. Keywords: lễ hội TPHCM tháng 4, sự kiện lớn ở TPHCM, không khí 30 tháng 4, tìm hiểu Dinh Thống ...
TikTok · duonggiaothong · 3 weeks ago
Khoảnh khắc trưa ngày 30/4/1975 tại Phủ Tổng thống (Dinh Độc Lập)#giaiphongmiennam #lichsuvietnam #dienbienphu. Kỉ Niệm 50 Năm Giải Phóng Miền ...
TikTok · vietnam.27dienbienphu · 5 days ago
NÓNG: Lưu ngay chi tiết lịch trình các sự kiện mừng Đại lễ Kỷ niệm 50 năm Giải Phóng Miền Nam 30 Tháng 4 này. Full lịch từ sáng sớm tới ...
TikTok · ngochamyo · 5 days ago
Mỗi độ tháng Tư về, trong tim người Việt Nam lại ngân vang một khúc hùng ca bất diệt – bản anh hùng ca chiến thắng 30/4/1975, ngày đất nước hoàn toàn thống nhất ...
Liên đoàn Lao động tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu · Báo Quân đội nhân dân Điện tử · 1 week ago
Ngày 30/4/1975: Kết thúc của chiến tranh và khởi đầu của m · 16 hours ago · 37K views ; Mỹ cần cảnh giác: Giúp đỡ chế độ độc đảng CSVN là nuôi dư ...
Facebook · Nguyễn Văn Đài · 1 month ago
Du Khách Quốc Tế "Phát Sốt" Với Đại Lễ 30/4 Tại TP.HCM – Trải Nghiệm Có Một Không Hai! · Comments.
YouTube · Thời Sự Toàn Diện · 3 days ago
CUỘC THI TÌM HIỂU VỀ 70 NĂM CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ 70 NĂM NGÀY KÝ HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ - CHẶNG 2, TUẦN 6.
Facebook · Cổng thông tin Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh · Jan 26, 2024
3033 Lượt thích,44 Bình luận.Video TikTok từ Đồng Âm (@dongam_den.vauvn): "Khám phá hành trình và nỗ lực giữ gìn tự do, hòa bình trong lòng ...
TikTok · dongam_den.vauvn · Aug 1, 2024
CUỘC THI TÌM HIỂU VỀ 70 NĂM CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ 70 NĂM NGÀY KÝ HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ - CHẶNG 1, TUẦN 2.
Facebook · Cổng thông tin Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh · Dec 29, 2023
mùng 2 tháng chín và 15 đất nước hoàn toàn thống nhất. với quy mô 30.000 người. là lễ duyệt binh khiến cả Đông Nam Á phải khiếp sợ. thể hiện sức ...
TikTok · saigon.30.04.75 · 6 days ago
NÓNG: Lưu ngay chi tiết lịch trình các sự kiện mừng Đại lễ Kỷ niệm 50 năm Giải Phóng Miền Nam 30 Tháng 4 này. Full lịch từ sáng sớm tới ...
TikTok · toiyeuvietnam437 · 2 weeks ago
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã đi vào lịch sử dân tộc như một mốc son ... Hoà bình hiện tại là sự đánh đổi bằng sự hi sinh của bao người ...
TikTok · camerachiensi · 1 month ago
... tưởng niệm Hùng Vương một cách riêng tư. Đến tháng 2 năm 1964, sau ... Sự sụp đổ của Sài Gòn diễn ra vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi ...
TikTok · nhchut704 · 1 week ago
Keywords: Luyện diễu binh 30/4, hoạt động diễu hành hoành tráng, quân đội Lào tham gia Việt Nam, diễu binh Quốc tế 2023, lễ kỷ niệm giải phóng ...
TikTok · tun70118 · 4 days ago
27.2K Lượt thích,1901 Bình luận.Video TikTok từ Sen Hồng (@sen85hong79): "Đoàn kết bảo vệ cờ Vàng trong lễ tưởng niệm Quốc hận 30/4.
TikTok · sen85hong79 · 1 week ago



 Bản để in  Lưu dạng file  Gửi tin qua email  Thảo luận


Những nội dung khác:
Chế độ Trump [11.01.2025 19:21]




Lên đầu trang

     Tìm kiếm 

     Tin mới nhất 

     Đọc nhiều nhất 
From The Vietnam War and the Exodus to Canadat o Trump Era [Đã đọc: 311 lần]
Canada’s Choice: Stability, Progress, and Leadership with Mark Carney [Đã đọc: 271 lần]
Chiến tranh Việt Nam chấm dứt 30-4-75 tưởng niệm nửa thế kỷ [Đã đọc: 249 lần]
Cảnh báo về việc lựa chọn nhà thầu xây dựng: Đừng để ảnh hưởng chính trị và giá rẻ làm lu mờ chất lượng [Đã đọc: 226 lần]
Beautiful electric cars made in Canada to compete worldwide [Đã đọc: 222 lần]
Thất Bại Lịch Sử Của Trump Trong 100 Ngày Đầu Tiên: Một Bức Tranh U Ám [Đã đọc: 217 lần]
Kính gửi Quý Đồng bào Người Mỹ gốc Việt cùng với những người Việt Nam trong nước và trên toàn thế giới yêu quý, [Đã đọc: 207 lần]
Phong Trào Thịnh Vượng Việt Nam giúp người Việt làm giàu và nhân đạo [Đã đọc: 200 lần]
Trả Lại Tên Sài Gòn: Giấc Mơ Hồi Sinh [Đã đọc: 182 lần]
Cải Tạo! [Đã đọc: 164 lần]

Trang chủ :: Tin tức - Sự kiện :: Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca :: Bản sắc Việt :: Văn hóa - Giải trí :: Khoa học kỹ thuật :: Góc thư giãn :: Web links :: Vietnam News in English :: Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng :: Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP :: Liên hệ

Bản quyền: Vietnamville
Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút: Tân Văn.